Lai Tân - Hồ Chí Minh

Lai Tân - Hồ Chí Minh

LAI TÂN

I. Tìm hiểu chung về bài thơ

1. Vị trí và hoàn cảnh ra đời

-        Là bài thơ 97 trong 134 bài thuộc" Nhật ký trong tù", được sáng tác khoảng cuối tháng 11 đầu tháng 12 năm 1942.

-        Lai Tân là địa danh, nơi mà Người đã trải qua trên con đường từ Thiên Giang đến Liễu Châu bằng xe lửa. Bài thơ ghi chép về những điều tai nghe, mắt thấy ở Lai Tân , đồng thời là tiếng cười châm biếm thâm thuý , nhẹ nhàng của nhà thơ về bọn quan lại sâu mọt dưới thời Tưởng Giới Thạch .

2. Bố cục bài thơ

-        Bài thơ có 1 bố cục hết sức đặc biệt: 3 câu đầu và 1 câu cuối

·      3 câu đầu: Thực trạng thối nát của chính quyền ở Lai Tân

·      Câu cuối: Thái độ châm biếm của tác giả

-        Kết cấu này tạo ra tính bất ngờ, tạo điểm nhấn trong mạch cảm xúc của người đọc. Một kết luận đầy tính châm biếm về hiện thực đến phút chót mới hiện ra.

II. Phân tích

1. Ba câu đầu

-        Sử dụng kiểu câu tự sự, với giọng kể khách quan, không hề có sự bình luận hay bộc lộ thái độ của tác giả.

-        Ba câu thơ, tác giả nói đến 3 đối tượng khác nhau trong hệ thống quan lại Trung Quốc, cụ thể trong bối cảnh nhà giam Lai Tân thời điểm bấy giờ.

Câu 1: Ban trưởng nhà lao: chuyên đánh bạc (thiên thiên đổ)

  • Con người thực thi của pháp luật nhà tù, cai quản tù nhân, thế mà lại là một người ham đánh bạc.
  • Hai chữ "thiên thiên " ( ngày ngày ) cho thấy đây sự việc, hành động diễn ra một cách thường xuyên, ngày này qua ngày khác, đều đặn như một thói quen, như một lẽ hiển nhiên.

→ Dưới ngòi bút của Hồ Chí Minh, nhà tù Tưởng Giới Thạch không phải là nơi giam giữ và cải tạo tù nhân mà là một sòng bạc với những con bạc lại là những người thực thi pháp luật. Hình ảnh của nhà tù  bên ngoài thì nghiêm minh nhưng

bên trong thì giả dối, bất công, phi lí

Câu 2:  Cảnh trưởng tham lam ăn tiền của phạm nhân

·           Hành động của cảnh trưởng là hành động của một tên ăn cướp, hành động của một tên trấn lột, ăn chặn bẩn thỉu và tàn nhẫn. Cái nực cười mỉa mai nhất là hành động này lại diễn ra ở chốn ngục tù, giữa cảnh trưởng và tù nhân. Tù nhân thì làm gì có tiền thế mà chúng cũng chẳng tha.

·           Thái độ của tác giả khi phản ánh thực trạng này là rất thẳng thắn, dứt khoát, trực diện. Điều đó thể hiện qua hai chữ “tham thôn” (tham lam ăn tiền) được sử dụng với đúng nghĩa của nó.

→ Hành động của cảnh trưởng đã nói hết sự

thối nát, đê tiện của nhà tù dưới thời Tưởng Giới Thạch.

Câu 3: nói về việc làm của huyện trưởng. Câu này có nhiều cách hiểu

·           Huyện trưởng chong đèn làm việc công → rất có thể là viên quan mẫn cán nhưng quan liêu, bằng chứng là dung túng cho bộ hạ (ban trưởng, cảnh trưởng) làm điều sằng bậy

·           Thực chất huyện trưởng chong đèn là để hút thuốc phiện (theo Đặng Thai Mai và Hoàng Trung Thông)

Thiên về cách hiểu thứ 2.

Bằng chứng lý giải: nhà văn Phùng Nghệ, Chủ tịch Hội Nhà văn Quảng Tây (Trung Quốc) đã khẳng định: đó là tiếng lóng của vùng Quảng Tây hay dùng để chỉ việc hút thuốc phiện, điều này được ghi trong từ điển tiếng lóng Trung Quốc. Người Trung Quốc đọc câu đó là hiểu ngay huyện trưởng đốt đèn để hút thuốc phiện

Nếu 2 câu trên tác giả vạch trần bộ mặt bọn quan lại một cách trực diện thì ở câu này, Người lại sử dụng  nghệ thuật châm biếm sắc sảo, sâu cay.

Tóm lại, chỉ qua ba câu thơ Hồ Chí Minh đã khái quát được sự thối nát của bộ máy chính quyền nơi đây. Các bộ máy chính quyền ấy chính là bộ mặt của xã hội Trung hoa dưới thời giặc Tưởng. Ở xã hội ấy, sự phi lý chồng chất , sự bất công chồng chất , sự thối nát chồng chất , nó diễn ra ở mọi chỗ , mọi việc , mọi lúc

3. Hai câu cuối

-        Câu cuối không đi theo mạch lô gic của ba câu trên. Câu cuối có thể hiểu : "trời đất Lai Tân vẫn thái bình như cũ". Thoạt nhìn tưởng như câu thơ thể hiện một sự hài lòng một lời ca ngợi. Nhưng rõ ràng 3 câu thơ trên cho chúng ta khẳng định: trời đất Lai Tân không thể thái bình theo nghĩa đúng của nó như vậy. Đây thực chất là sự mỉa mai, châm biếm của tác giả

-        Thái bình mà tác giả muốn ám chỉ ở đây là:

  • Thái bình đối với bọn quan lại thối nát, đê tiện, nhiễu nhương, bởi bọn chúng vẫn ngày ngày được đánh bạc, được ăn hối lộ và hút thuốc phiện, không cần quan tâm dân tình ra sao. Điều đó càng khắc sâu thêm tình trạng thối nát đã trở thành một “nền nếp” diễn ra thường xuyên, bình ổn trong bộ máy chính quyền Lai Tân
  • Bài thơ được viết cuối năm 1942 là lúc cuộc chiến tranh thế giới thứ hai đang ở thời kỳ ác liệt, phát xít Nhật xâm lược Trung Quốc, biết bao biến động, biết bao tang thương, vậy mà bọn người này vẫn bình chân, vẫn cứ thấy Lai Tân thái bình. Điều đó còn cho thấy sự tàn ác, nhẫn tâm của tầng lớp quan lại Trung Quốc.

-        Hai chữ “thái bình” được xem là nhãn tự của bài thơ, Hoàng Trung Thông nhận xét: “Hai chữ thái bình mà xâu tóm lại bao nhiêu việc làm trên là muôn thuở của XHTQ, của giai cấp bóc lột thống trị. Chỉ hai chữ ấy  mà xé toang tất cả mọi thái bình trá nhưng thực chất là đại loạn ở bên trong”.

Với giọng thơ có vẻ bình thản vô cảm nhưng kì thực là sự mỉa mai, đả kích mạnh mẽ, Hồ Chí Minh đã tố cáo sự thối nát của bộ máy chính quyền đã đến mức trầm trọng, trở thành phổ biến, trở thành nếp sống trên đất nước Trung Hoa

III. Tổng kết

1. Nội dung:

 Tác phẩm đã vẽ nên cái bản chất của cả chế độ XH dưới thời Tưởng Giới Thạch xấu xa mục nát đến vô cùng. Chất “thép” của bài thơ nhẹ nhàng mà quyết liệt.

2. Nghệ thuật:

 Bài thơ in đậm bút pháp châm biếm thơ HCM: Lời thơ ngắn gọn, súc tích, nhưng đạt hiệu quả nghệ thuật cao.