Vợ Nhặt - Kim Lân

Vợ Nhặt - Kim Lân

VỢ NHẶT – KIM LÂN

1. Tác giả.

- Tên thật Nguyễn Văn Tài, sinh 1920, mất năm 2007.

- Quê Tân Hồng – Từ Sơn – Bắc Ninh

- Chỉ học hết tiểu học, tham gia viết văn từ năm 1941, năm 1944 tham gia hội văn hoá cứu quốc. Làm báo, viết văn, diễn kịch, đóng phim phục vụ kháng chiến.

- Văn chương của Kim Lân tập trung ở mảng đề tài nông thôn với lối viết chân thật, ngôn ngữ giản dị, cách kể truyện rất duyên.

2. Tác Phẩm.

a. Xuất xứ, hoàn cảnh sáng tác.

- Rút trọng tập  Con chó xấu xí ( 1962)

- Tiền thân từ Tiểu thuyết Xóm ngụ cư viết sau Ccách mạng tháng Tám.

·        Từ tiểu dẫn chúng ta đã có định hướng về đặc điểm văn chương của Kim Lân và bối cảnh lịch sử của thiên truyện - nạn đói năm 1945  và cũng là năm cách mạng tháng tám thành công với vai trò chủ yếu của người nông dân.

b. Tóm tắt, phát hiện bố cục, nêu chủ đề và cách tìm hiểu tác phẩm.

- Tóm tắt: Truyện xoay quanh sự việc Tràng  “nhặt” được vợ sự việc tạo nên những ngạc nhiên cho xóm ngụ cư, cho bà mẹ Tràng và ngay cả Tràng, người trong cuộc. Có thể tóm lại như sau:

+ Chỉ hai lần gặp với hai câu đùa và 4 bát bánh đúc Tràng đã lấy được vợ.

+ Tràng dẫn vợ về nhà ở xóm ngụ cư vào một buổi chiều chạng vạng làm xôn xao cả xóm

+ Mẹ Tràng vừa mừng vừa tủi.

+ Sáng hôm sau bối cảnh xung quang Tràng và tâm trạng của mỗi người trong nhà Tràng đều đổi khác.

- Bố cục và mạch truyện. 4 đoạn theo cách sắp xếp của tác giả:

+ Đ1. (Từ đầu đến...thế mà thành vợ thành chồng.) Tràng đưa người phụ nữ ( nhặt được ) về nhà gặp mẹ.

+ Đ2. ( Từ “ ít lâu nay, hắn xe thóc...đến... đánh một bữa no nê rồi đẩy xe bò về”) Hoàn cảnh gặp nhau, nên vợ nên chồng.

Đ3. ( Từ “ Tràng chợt dừng lại, lắng nghe...đến,...nước mắt của chảy ròng ròng” ) Tình thương của bà mẹ nghèo đối với hai vợ chồng mới cuới.

Đ4. ( cón lại) Những con người cơ cực, tủi hờn nhen nhóm nềm tin ở tương lai.

- Mạch truyện được đẫn dắt tự nhiên theo thời gian cùng diễn biến tâm lí của nhân vật.

II. TÌM HIỂU CHI TIẾT.

1. Nhan đề, tình huống truyện.

- Nhan đề truyện đã gợi cho ta nhiều suy nghĩ về số phận của con người. xưa nay, nói đến chuyện “ vợ, con” là chuyện cả một đời con người.

- Nhan đề cũng chính là tình huống trong truyện.

+ Tràng một nhân vật xấu, nghèo, lại là dân ngụ cư, giữa lúc đói khát lại lấy được vợ, lấy vợ dễ dàng.

+ Tràng lấy vợ giữa lúc đói quay, đói quắt.

    Tình huống này vừa gợi sự xót thương đồng thời cũng để người ta ngưỡng mộ niềm khát khao tổ ấm và hạnh phúc của các nhân vật trong truyện.

2. Vấn đề số phận con người trước cái đói.

- Nạn đói được miêu tả ngay ở đầu truyện bằng những câu văn giàu sức gợi tạo ấn tượng về một thảm cảnh của con người. Cái đói bao chùm khung cảnh xóm ngụ cư,  bao chùm lên hạnh phúc của Tràng. Những bóng người “ Xanh xám như những bóng ma” “ dật  dờ như những bóng ma” “ Chết như ngả dạ” “ không kí vẩn mùi rác rười và mùi gây của xác người chết”; “ ngõ xóm tố xẫm” “ ngăn ngắt”...

- Thị chỉ mấy hôm đã thay đổi vì đói “ Rách như tổ đỉa”; “ trên khuôn mặt lưỡi cày chỉ có hai con mắt”.

- Vì đói mà Thị theo Tràng với bốn bát bánh đúc, tất cả phần danh dự được đặt sau cái vật chất “ nhỏ nhoi”.

- Tràng “ nhặt vợ” nhưng vẫn thấy “Chợn”.

- Mẹ Tràng biết rằng vì đói con mình mới có vợ, nhưng vẫn lo “ Không biết chúng cố nuôi nổi nhau qua cái đận này không”

-> Số phận con người thật mỏng manh trước cái đói.

 3. Niềm khát khao tổ ấm gia đình của các nhân vật.

 - Tràng

   Quyết định “ nhặt vợ “ một quyết định liều lĩnh, bản thân Tràng cũng thấy “chơn”. Nhưng anh ta “ chậc kệ”; trên đường về xóm ngụ cư khuôn mặt của Tràng “ phởn phơ” với những ý nghĩ thật đáng quý: “ Trong lòng hắn bây giờ chỉ còn tình nghĩa giữa hắn và người đàn bà đi bên. Một cái gì mới mẻ,lạ lắm, chưa từng thấy ở người đàn ông nghèo khổ ấy”;  Sáng hôm sau Tràng bước ra sân khi mội vật đều thay đổi : “ Bỗng nhiên hắn thấy hắn thương yêu gắn bố với cái nhà của hắn lại lùng......hắn cũng muốn làm một việc gì để góp phần tu sửa lại căn nhà”.

    Tràng lấy vợ là một quyết định liều lĩnh nhưng rõ ràng nó xuất phát từ niềm khát khao hạnh phúc gia đình của nhân vật.

- Thị

   Theo Tràng về cũng liều lĩnh, có phần chơ cháo, theo Tràng trước hết là vì miếng ăn. Nhưng trên đường về xóm ngụ cư rõ ràng nhân cách của Thị đã sống dậy, Thị biết “ ngượng”; đến nhà Tràng, chứng kiến gia cảnh nghèo xơ xác thị nén hơi thở dài trong cáo ngực lép kẹp: “ cái ngực gầy lep, nhô lên, lén một tiếng thở dài”;  sáng hôm sau dưới con mắt của Tràng: “ rõ ràng là người đàn bà hiền hậu, đúng mực  không còn vẻ gì chao chát, chỏng lỏn như mấy lần Tràng gặp ở ngoài tỉnh.”

   Rõ ràng Thị theo Tràng không đơn giản vì miếng ăn mà còn xuất phát từ khát vọng có một tổ ấm gia đình.

 

- Bà cụ Tứ .

   Việc có một người phụ nữ theo Tràng về làm vợ khiến bà mẹ ngạc nhiên. Nhưng sau khi hiểu ra cơ sự , bà cụ Tứ “ cúi đầu im lặng”. Sự im lặng đầy tâm trạng của bà mẹ từng trải vừa xót xa, vừa lo lắng nhưng cũng đầy thương cảm. Tình thương của bà cụ Tứ với vợ chồng Tràng mối bao dung làm sao “ biết chúng nó có nuôi nổi nhau sống qua cơn đối khát này không? “

  Bắt đầu từ tình thương con trai, sau đó đến tình thương con dâu. đó không phải chỉ là tình thương của mẹ đối với con mà là tình thương của những con người cùng cảnh ngộ, tình thương đồng loại. Tình thương của bà cụ Tứ vừ xuất hiện đã biến thành một nỗi lo tạo thành một tâm lí triền miên day dứt. Tác giả xoáy vào dòng ý nghĩ của bà mẹ:  nghĩ đến bổn phận làm mẹ chưa tròn, nghĩ đến ông lão, nghĩ đến con gái út và nỗi khổ đời mình, nghị đến tương lai của con. Người đàn bà ấy còn biết làm gì trước một viễn cảnh không mấy sáng sủa của gia đình..                                                      Cuối cùng bao nhiêu dồn tụ, lo lắng, bao nhiêu yêu thương của bà lão, được tác giả Kim Lân đặt vào đó một câu nói giản dị của bà: “ chúng mày lấy nhau lúc này u thươn g quá!...”;

   Sáng hôm sau bà cụ nối toàn chuyện vui bên cạnh mâm cơm thảm hại ngày đói,  tất cả đều thể hiện tấm lòng thương con, thương dâu của bà mẹ chân chất, đôn hậu. Trong bức ảnh nhợt nhạt của xã hội Việt Nam trước cái “đói quay”, “ đói quắt” năm 1945. bà cụ Tứ là một điểm sáng tươi đẹp.

  Như vậy ta thấy, trong bối cảnh của đói khát, trước bờ vực của cái chết. Bàng ấy con người vân dắt dìu nhau hướng tới một tổ ấm gia đình

* Hình ảnh cuối truyện.

    Tác giả đã phát hiện ở những người nông đân khả năng hướng tới cánh mạng. Giữa cách mạng tháng tám và người nông đân đã có một điểm tương cận – hướng tới thay đổi số phận người nông dân mà trước hết là giải quyết nạn đói vấn đề cơ bản và trước mắt.

4. Những thành công về nghệ thuật của Kim Lân.

- Tác giả đã xây dựng được một tình huống truyện độc đáo, tạo điều kiện làm nổi bật tính cách của các nhân vật và hoàn cảnh.

- Lối kể truyện mộc mạc, giản dị. Ngôn ngự được chắt lọc kĩ lưỡng từ ngôn ngữ đời thường tạo nên sức lôi cuốn và phong vị riêng rất Kim Lân.

- Tác giả đã tạo được nét chân dung, tính các riêng của từng nhân vật và miêu tả sinh động những diễn biến tâm lí phức tạp, đa dạng của nhân vật .

III. TỔNG KẾT.

1. Nội dung.

    Truyện không chỉ miêu tả nạn đói thê thảm năm 1945 mà còn thể hiện được bản chất tốt đẹp và sức sống kì diệu của những ngưới nông dân.

2. Nghệ thuật.

   Nội dung đó được thể hiện bằng một tình huống truyện độc đáo, lối kể truyện mộc mạc, khác hoạ tâm lí và xây dựng nhân vật khá độc đáo.