Đất Nước - Nguyễn Khoa Điềm

Đất Nước - Nguyễn Khoa Điềm

Đất Nước - Nguyễn Khoa Điềm

A. Vài nét về tác giả và tác phẩm:

1.   Với Đất ngoại ô (1972) và Mặt đường khát vọng (1974), Nguyễn Khoa Điềm là một trong những gương mặt tiêu biểu của thế hệ thơ trẻ thời chống Mĩ. Thơ ông hấp dẫn bởi sự kết hợp hài hòa giữa xúc cảm nồng nàn và suy tư sâu lắng của người trí thức về đất nước, con người Việt

2.   Đất Nước được trích từ phần đầu chương V của bản trường ca Mặt đường khát vọng của Nguyễn Khoa Điềm – bản trường ca được sáng tác tại chiến khu Trị – Thiên năm 1971 và gửi ra Bắc in lần đầu năm

B. Phân tích bài thơ

 

Đoạn thơ sau: “Khi ta lớn lên Đất Nước đã có rồi … Đất Nước từ ngày đó”

Đất nước hai thiêng liêng đầy cảm mến tự hoà đã khơi nguồn cho biết bao hồn thơ rung cảm mãnh liệt. Theo dọc đương thơ ta đã từng bắt gặp những bài thơ áng văn đặc sắc khi viết về đất nước như “ Nam quốc Sơn hà” của Lý thường Kiệt hay “ Đại cáo bình ngô” của Nguyễn Trãi. Ta đã từng say sưa trước giọng đĩnh đạc, hào hùng của Nguyễn Đình Thi trong bài “Đất nước” và thật là thiếu sót nếu nhắc đến đề tài đất nước trong nền VH hiện đại lại không nhắc đến “đất nước” trích phần đầu, chương V của “Trường ca mặt đường khát vọng” của nhà thơ Nguyễn Khoa Điềm được sáng tác năm 1971 tại chiến khu Trị – Thiên. Với lời trò truyện tâm tình nhà thơ đã thể hiện nỗi cảm xúc, suy tư về cội nguồn quá khứ đất nước để từ đó khẳng định đất nước này là đất nước của nhân dân, đất nước của ca dao, thần thoại. Đoạn thơ bình giảng dưới đây là đoạn thơ mở đầu của đất nước nhà thơ đã đưa người đọc trở về với lịch sử của dân tộc để trả lời cho câu hỏi đất nước có từ bao giờ:

“Khi ta lớn lên Đất Nước đã có rồi

………………………..

Đất Nước có từ ngày đó

Mở đầu khúc ca nhà thơ đã nói lên một cách dung dị mà thấm thía về cội nguồn sâu xa của đất nước.

“Khi ta lớn lên Đất Nước đã có rồi”

Đất nước có trong những cái “ngày xửa, ngày xưa” mẹ thường hay kể với giọng thủ thỉ, tâm tình nhà thơ gợi lên một không khí trầm lắng như kể chuyện cổ tích. Như dẫn người đọc ngược dòng thời gian trở về với cội nguồn đất nước. Đất nước bắt đầu từ “ngày xửa, ngày xưa” bốn chữ ngày xửa, ngày xưa được tác giả dùng rất tinh tế, đó là nhịp điệu ngân đời của lời cổ tích, vừa gợi lên cái xa xăm của chiều dài lịch sử, của thủa khai thiên lập địa lại vừa gần gũi thân quen trong kí ức tuổi thơ, bởi ai cũng lớn lên từ 1 vành nơi, từ lời kể, lời kể, lời ru, trầm bổng ngân nga của mẹ. Chữ “đã có” trong dòng thơ đã làm cho câu thơ mang giọng điệu khẳng định sự hình thành và phát triển vững chắc của đất nước Việt Nam, toả sáng 1 niềm tin.

Nhưng phát hiện của nhà thơ về đất nước làm cho người đọc ngỡ ngàng nhất vẫn là những câu thơ dưới đây:

“Đất Nước bắt đầu với miếng trầu bây giờ bà ăn

Đất Nước lớn lên khi dân mình

 

Hình ảnh “miếng trầu bà ăn” gợi tập tục ăn trầu, trở thành truyền thống của Người Việt, thành ngữ  có câu “miếng trầu là đầu câu chuyện” (miếng trầu nên dâu nhà người) trong ca dao hình ảnh này càng hết sức quen thuộc: “Gặp đây mời một miếng trầu, chẳng ai cầm lấy cho vừa lòng nhau”.Rồi chuyện “trầu, cau” xúc động lòng người. Từ chất liệu văn hoá dân gian “miếng trầu” Nguyễn Khoa Điềm đã sáng tạo ra câu thơ “Đất Nước bắt … bà ăn” nhìn vào hình ảnh câu thơ dường như diễn tả có vẻ phí lí bởi đất nước trong tiềm thức chung là một kỷ niệm lớn lao sao lại bắt đầu từ miếng trầu – một sự nhỏ bé trong đời thường. Hơn nữa suy nghĩ về cội nguồn quá khứ đất nước sao lại “bắt đầu với miếng trầu bây giờ bà ăn?” nhưng nếu thẩm thơ kĩ hơn ta sẽ nhận thấy 1 tư tưởng sâu sắc về đất nước của tác giả. Đất nước có to lớn, thiêng liêng đến đâu  thì cũng phải bắt đầu từ những sự vật nhỏ bé, đời thường. Không có những cái nhỏ nhoi như miếng trầu thì không có sự lớn lao của đất nước. Những là mỗi miếng trầu bà ăn hôm nay đều mang những nét tập tục, văn hoá truyền thóng của đất nước. Qua đây ta thấy câu thơ của Nguyễn Khoa Điềm đã thể hiện 1 sự suy tưởng sâu sắc thể hiện được tình yêu quê hương, đất nước của nhà thơ trong chiều sâu, quá khứ, cội nguồn lịch sử.

Nếu câu thơ “miếng trầu…” thể hiện cảm nhận sâu sắc của nhà thơ về chiều sâu quá khứ dân tộc thì câu thơ:

“Đất Nước lớn lên khi …. đánh giặc”

Lại đem đến cho người đọc một cảm nhận mới về đất nước. Cụm từ “biết trồng tre mà đánh giặc” gợi cho người đọc nhớ tới truyền thuyết Thánh Gióng. Cậu bé vươn vai trở thành tráng sĩ, nhổ tre đuổi giặc ra khỏi bờ cõi. Từ đây ta có thể hiểu ý thơ của Nguyễn Khoa Điềm ở chữ “lớn lên” nhà thơ muốn nói đến sự vươn mình của dân tộc. Đánh dấu sức mạnh quật khởi của “đất nước lớn lên”

3.2 câu tiếp: Khẳng định đất nước hiện diện ngang trong cuộc sống mỗi gia đình: trong thói quen, trong tập quán, trong đạo lý. Đất nước theo cách cảm nhận của Nguyễn Khoa Điềm còn thể hiện diện ngay trong cuộc sống mỗi con người, mỗi gia đình, trong đạo lý tốt đẹp ngàn đời của dân tộc:

“Tóc mẹ thì bời sau đầu

Cha mẹ thương nhau bằng gừng cay muối mặn”

Vói câu tho này nhà thơ khẳng định có ngày trong thói quen, trong phong tục “bới tóc của mẹ, thương đạo lí tình nghĩa thuỷ chung đôi lứa: Từ câu ca dao:

“Tay nâng chén muối, đĩa gừng

Gừng cay muối mặn xin đừng quên nhau.

Nguyễn Khoa Điềm đã sáng tạo ra câu thơ trên để khẳng định đất nước quên nhau thuỷ chung giữa người với người. Trong những ngôi nhà rất độc thân quen, bao thế hệ người việt nam gắn bó yêu thương, sinh con, đẻ cái truyền từ thế hệ này sang thế hệ khác những thuần phong mĩ tục, những truyền thống dựng nước và giữ nước. Đất nước bắt nguồn từ đấy từ những gia đình có cha mẹ thương nhau bằng gừng cay, muối mặn. Có thể nói không còn cách diễn đạt nào hay hơn thế về đất nước của nhân dân, của ca dao thần thoại.

Nguyễn Khoa Điềm thể hiện những phát hiện mới về đất nước:

“Cái kèo, cái cột thành tên

Hạt gạo phải một nắng 2 sương xay, giã, giần, sàng

Đất nước có từ ngày đó”

Ở đây nhà thơ đã lấy sự hình thành và phát triển ngôn ngữ của dân tộc để nói về nguồn gốc lâu đời của đất nước. Mỗi vật dụng đề có 1 cái tên, ghi dấu linh hồn Việt: cột, kèo. Nhân dân ta đã sáng tạo ra nền văn minh lúa nước, khi hạt gạo được làm nên từ một nắng hai sương thì ngôn ngữ xay, giã, giần, sàng, cũng xuất hiện. Tiếng Việt chính là tài sản vô giá của đất nước. Không chỉ vậy ở những câu thơ này Nguyễn Khoa Điềm còn khẳng định đất nước còn là hạt gạo ta ăn hàng ngày, là cái kèo, cái cột trong nhà, nghĩa là đất nước là cái nuôi ta lớn lên, cái che chở cho cuộc đời ta mà trong đó thấm đẫm mồ hôi nhọc nhằn của  mẹ, của cha, của thế hệ đi trước.

Có thể nói 9 câu thơ mở đầu này Nguyễn Khoa Điềm thể hiện những phát hiện mới mẻ về đất nước. Trước đây trong bài “Nam quốc Sơn hà” tác giả bài thơ này đã dùng đến “đế cư” “ thiên thư” để thiêng liêng hoá đất nước. Còn bài “Văn tế nghĩa sĩ cần giuộc” của Nguyễn Đình Chiểu bài thơ Nam bộ này lại ta mượn “ một mỗi xa thư đồ sộ” hai vầng nhật nguyệt chói loà” để trang trọng hoá đất nước, để thiêng liêng hoá đất nước, còn ở điểm thơ này Nguyễn Khoa Điềm đã biến đất nước vô hình trở thành hữu hình, đất nước tưởng xa mà hoá gần, tưởng mênh mông mà trở nên ấm áp, gần gũi bởi nhà thơ đã sử dụng nhiều chất liệu văn hoá dân gian, đó là câu chuyện cổ tích, truyền thuyết, tục ngữ ca dao, đều được hoá thân vào trong những câu thơ của tác giả. Nguyễn Khoa Điềm nói về đất nước có từ “ngày xửa, ngày xưa” mà ta không hề thấy xa vời. Như vậy Nguyễn Khoa Điềm đã có công đưa đất nước từ trời cao thượng đế, từ ngai vàng vua chúa xuóng miếng trầu của bà ăn, búi tóc của mẹ, hạt gạo một nắng hai sương gây xúc động sâu sắc cho bạn đọc.

Đất nước là một đề muôn thủa, bao trùm mọi thời đại thi ca. Sống ở cá thời là gian khổ, ác liệt những cũng rất hào hùng của những năm tháng chống Mĩ. Nguyễn Khoa Điềm đã thể hiện rất thành công đề tài này, bằng hình thức thơ trữ tình – chính luận. Đoạn thơ ta bình giảng ở dây là một trường hợp tiêu biểu. Trong đoạn thơ này đã thể hiện những phát hiện mới về đất nước rồi khẳng định “Đất Ngước này là đất nước của dân, của ca dao, thần thoại” khởi dậy ở người đọc lòng yêu nuớc, niềm tự hào của dân tộc cùng trách nhiệm của công dân đối với đất nước. Thực hiện nội dung đó bằng hình thức tâm tình, lời thơ ngọt ngào, tha thiết, Nguyễn Khoa Điềm không những đóng góp đối với dòng thơ ca viết về đất nước mà còn góp phần làm sâu sắc thêm nhận thức của mỗi chúng ta về đất nước của nhân dân.

Đoạn thơ: “Đất là nơi anh đến trường… Làm nên Đất Nước muôn đời”

Đoạn thơ bình giảng dưới đây Nguyễn Khoa Điềm đã tách riêng 2 yếu tố đất nước và trình bày theo lối đ/n giải thích để khẳng định đất nước chính là sự hoà hợp của 2 yếu tố đất, nước. Nó gắn bó mật thết với đời sống người dân.

“Đất là nơi anh đến trường Nước là nơi em tắm

……………

Hằng năm ăn đâu làm đâu

Cũng biết cúi đầu nhớ ngày giỗ Tổ”

Cũng như cả chương V của trường ca mặt đường khát vọng đoạn thơ này được thể hiện bằng một hình thức thơ trữ tình – chính luận. Nguyễn Khoa Điềm mượn hình thức trò chuyện, thủ thỉ với nhân vật “em” từ đó nói lên suy nghĩ sâu sắc, những tình cảm chân thành của mình về đất nước. Đất nước vừa thiêng liêng, lại vừa gần gũi. Vì vậy những câu thơ, khổ thơ, đoạn thơ trong bài “ đất nước” đều đêm đến cho người đọc sự cảm nhận khá tinh tế phong phú về hình ảnh đất nước hôm qua hôm nay và mai sau. Đất nước của núi sông, của lịch sử, của truyền thống, nguồn cội, của những cái lớn lao, trang trọng nhưng cũng là của anh, của em từ lúc thơ cho đến khi trưởng thành:

“ Đất là nơi anh đến trường Nước là nơi em tắm

Đất Nước là nơi ta hò hẹn

Đất Nước là nơi em đánh rơi chiếc khăn trong nỗi nhớ thầm

Đất Nước là nơi con chim phương hoàng bay về hòn núi bạc

Nước là nơi “ con cá ngư ông nóng nước biển khơi”

Những câu thơ trên được viết bằng tư duy, vừa mang tính trữ tình lại vừa giàu sức triết luận. Nhà thơ tách 2 yếu tố đất nước Đất tương ứng với anh, nước tương ứng với em. Khi Nguyễn Khoa Điềm nói riêng về anh và em với những kỷ niệm tuổi thơ mỗi người thì nhà thơ tách riêng 2 chữ “đất, nước, còn đến khi anh em hò hẹn gắn kết thành “ta” thì 2 chữ đất nước lại được đứng sát cạnh nhau và ở đầu dòng thơ. Qua đây NKđ muốn thể hiện: đất nước chính là sự hoà hợp của 2 yếu tố đất và nước. Đất nước không phải là cái gì cao siêu xa vời mà nó là không gian sinh tồn hết sức gần gũi thân quen với mỗi người, đó là nơi anh đến trường – nơi ghi dần những kỷ niệm đầu đời, khi lần đầu tiên bước chân đi học để làm người có ích mai sau. Nơi ấy còn là chốn hẹn hò của tình yêu lứa đôi. Câu thơ “ Nước là nơi em tắm” gợi người đọc liên tưởng  đến những giếng nước, ao làng trong vắt, ngọt lành của quê hương. Có thể nói câu thơ:

“ Đất nước là nơi em đánh rơi chiếc khăn trong nỗi nhớ thầm”

Là câu thơ viết rất hay và sâu sắc, thầm đẫm chất liệu văn hoá dân gian gợi cho người đọc nhớ tới ca dao!

“Khăn thương nhớ ai!

Khăn rơi xuống đất

Khăn thương nhớ ai

Khăn vắt lên vai”

Hình ảnh khăn trong bài ca dao là sự hoá thân cho của người con gái trong tình yêu lứa đôi thật đẹp, thật nồng thắm, da diết. Nguyễn Khoa Điềm tiếp nối mạch cảm xúc ấy để khẳng định đất nước có trong tình cảm của đôi lứa yêu nhau, hay nối cách khác nhau, tình yêu lứa đối đã hoà hợp làm 1 với tình yêu đất nước. Đây là 1 từ thơ đẹp đã được nhiều nhà thơ nói đến.

“ Anh yêu em như yêu đất nước

Vất vả đau thương tươi thắm vô ngàn”

                            ( Nguyễn Đình Thi)

Đất nước không chỉ hoà hợp trong tình yêu lứa đôi, gắn bó mật thiết với con người với mỗi chàng trai, cô gái mà thể hiện ở vẻ đẹp tự nhiên, làm đẹp thêm cuộc sống con người.

“ Đất là nơi con chim phượng hoàng bay về hòn núi bạc

Nước là nơi “ con cá ngư ông mang nước biển khơi”

Từ những câu ca dao miền Trung đẹp huyền thoại đã được nhà thư đưa vào 2 câu thơ trên gợi ra 1 đất nước giàu đẹp với muôn trùng núi bạc bát ngát biển khơi.

Những câu thơ tiếp vẫn theo lời triết luận, suy tưởng với giọng thơ trầm lắng để tác giả thực hiện cảm nhận của mình về đất nước trên bề rộng lớn không gian và thời gian đằng đẵng:

“ Thời gian đằng đẵng Không gian mênh mênh

Đất Nước là nơi dân mình đoàn tụ Đất là nơi chim về

Nước là nơi Rồng ở

Lạc Long Quân và Âu cơ đẻ ra đồng bào ta trong bọc trứng”

Như vậy đất nước được nhà thơ cảm nhận qua độ dài vô tận của thời gian “ đằng đẵng” lẫn chiều rộng của không mênh mông. Cái sâu sác của từ thơ là khi nhắc đến lịch sử dân tộc Nguyễn Khoa Điềm không nhắc đến các triều đại như Nguyễn Trãi đã từng làm:

“ Từ Triệu, Đinh, Lý, Trần bao đời gây nên độc lập

Cùng Hán, Đường, Tống, Nguyên mỗi bên hùng cứ một phương.

Nhà thơ cũng không nhắc đến những anh hùng lưu danh như Chế Lan Viên vẫn viết:

“Khi Nguyễn Trãi làm thơ và đánh giặc Nguyễn Du viết Kiều đất nước hoá thành văn

Khi Nguyễn Huệ cười voi vào cửa Bắc.

Hưng Đạo diệt quân Nguyên trên sông Bạch Đằng.

Nguyễn Khoa Điềm làm theo cách cảm nhận của riêng ông. Nhà tho nhác đến những hiện tưọng huyền thoại trong các truyền thuyết văn hoá, dân gian chìm về, rồng ở, Lạc Long Quân và Âu cơ, sự tích trăm trứng, Hùng vương dựng nước. Như vậy thời gian được nhà thơ cảm nhận trong chiều sâu quá khứ lịch sử hình thànhvà phát triển đất nước. Chính cách cảm nhận thời gian này đã tạo ra được hiệu qua nghệ thuật rõ rệt, gợi 1 vẻ đẹp đất nước vàư chân thực, vừa phảng phất chất huyền thoại. Đồng thời đánh thức tình cảm tổ tiên, tình cảm cội nguồn trong đầy tâm linh người Việt. Dù là sống ở miền ngược, miền xuôi trên rừng hay dưới bể, trong Nam hay ngoài Bắc đều là con cháu một nhà của tổ tiên Lạc Long Quân, Âu cơ gắn bó ruột thịt bao đời chung sức, chung lòng tạo dựng được quê hương ngày càng tươi đẹp, hùng mạnh. Đất nước ấy, dân tộc ấy tồn tại và phát triển do các thế hệ con người Việt Nam lớp lớp nối tiếp:

“Những ai đã khuất

Những ai bây giờ

Yêu nhau và sinh con đẻ cái

Gánh vác phần người đi trò để lại

Dặn dò con cháu chuyện mai sau

Hằng năm ăn đâu làm đâu

Cũng biết nhớ ngày giỗ Tổ”.

Những câu thơ thật tự nhiên mà vô cùng xao động lòng người đem đến những nhận thức về mối liên hệ vô cùng chặt chẽ, giữa các thế hệ người Việt Nam qua hàng nghìn năm lịch sử. Mỗi liên hệ ấy thật tự nhiên và mật thiết như máu chảy về tim. Thế hệ sau tiếp tục sống, bảo vệ, giữ gìn dựng xây những thành quả mới, làm tiếp những công việc mà người đi trước kể lại giọng thơ trong những câu thơ này thật trữ tình, bình dị mà sâu sắc vô cùng làm cho mỗi con người Việt Nam đang sống của ngày hôm nay không những đối với thế hệ tương lai. Nhưng đặc sắc nhất vẫn là 2 câu thơ này:

“Hàng năm ăn đâu là đâu

Cũng biết cúi đầu nhớ ngày giỗ Tổ”

Nâng tầm vóc dân tộc, tầm vóc đất nước lên tầm cao mới, chúng ta thấy ở đây vẻ đẹp của cảm xúc, của tầm hồn, của hình thức và trách nhiệm đều nổi bật. Hai chữ “cúi đầu” thực hiện sự thành kính, ngưỡng vọng thiêng liêng, chạm đúng và tình cảm nguồn cội, tự hào và khơi dậy trong tâm hồn người Việt Nam truyền thống Hùng Vương dựng nước nhờ đến ngày giỗ Tổ. Tổ là cội nguồn là ông bà.

Nói đến một câu thơ tả cảnh tài hoa, ta nói đến biện pháp tả cảnh, ngôn ngữ tả cảnh phù hợp với phong cách nhà thơ với trạng tháI tâm hồn trong nghệ thuật tả cảnh được tạo ra từ chính sự thống nhất ấy.

Nếu như ở đoạn thơ trước đó trong bài thơ, tác giả nhìn nhận đất nước từ bề dày văn hoá dân tộc hàng nghìn năm qua, thì ở đây lại là những suy nghĩ về đất nước từ cuộc sống hiện tại trong các mối quan hệ riêng – chung, cá nhân – cộng đồng, sự tiếp nối giữa các thế hệ.

Khổ thơ mở đầu bằng một lời khẳng định:

Trong anh và em hôm nay

Đều có một phần Đất Nước

Lâu nay, trong suy nghĩ của nhiều người, đất nước, quê hương, tổ quốc, dân tộc… luôn là những khái niệm trừu tượng. Với nhà thơ trẻ đang đôi mặt với cuộc chiến tranh khốc liệt một mất một còn, đất nước gần gũi, thân thiết. Điều này chưa hẳn đã mới, trong ca dao, dân ca có không ít những câu hát như thế:

Anh đi anh nhớ quê nhà

Nhớ canh rau muống nhớ cà dầm tương Nhớ ai dãi nắng dầm sương

Nhớ ai tát nước bên đường hôm nao.

 

Quê hương là tất cả những gì gắn bó ruột rà với con người. Đó là nơi ta yêu tha thiết. Đó là buổi sáng làm đồng. Đó là từng miếng ăn quê kiểng mỗi ngày…

Song, cái mới ở khổ thơ của Nguyễn Khoa Điềm là Đất Nước ở trong mỗi một con người, Đất Nước ở trong ta: Trong anh và em … Đất Nước trong chúng ta hài hoà nồng thắm… Đất Nước là máu xương của mình. Đó là nhận thức mới về đất nước. Nhận thức ấy được nêu ra để dẫn dắt đến một ý tứ khác của những dòng thơ ở cuối khổ này (từng cá nhân phải làm gì cho đất nước)

Bốn dòng thơ kế tiếp mở rộng ý ban đầu:

Khi hai đứa cầm tay

Đất Nước trong chúng ta hài hoà nồng thắm Khi chúng ta cầm tay mọi người

Đất Nước vẹn tròn, to lớn

Hai câu thơ (bốn dòng) được cấu trúc giống nhau theo kiểu cấu trúc của câu có điều kiện trong văn xuôi hay lời nói thông thường: Khi… Đất Nước. Hai câu thơ cũng là những lời khẳng định (kết quả của sự nhận thức) về một chân lý. Cả bốn dòng chỉ có một hình ảnh, lại là hình ảnh mang tính tượng trưng: cầm tay diễn tả sự thân thiết, tin cậy, yêu thương lẫn nhau. Hình ảnh ấy đi liền với những tính từ chỉ mức độ (hài hoà, nồng thắm, vẹn tròn, to lớn). Bởi vậy, dù ý tứ tuy không phải là quá mới mẻ, song, những câu thơ ấy lại có sức nặng của tình cảm chân thành. Những câu thơ này còn có một tầng nghĩa thứ hai, tác giả không trực tiếp nói ra. Đó là đất nước không phải là một khái niệm trừu tượng, càng không phải một giá trị bất biến, có sẵn. Đất nước là một thực thể sống và sự sống ấy ra sao ở về phía tất cả những con người trong đất nước đó. Nói rõ ràng ra, đó là mối quan hệ giữa cá nhân với cộng đồng, giữa mỗi một con người với đất nước.

Từ câu chuyện hiện tại, nhà thơ tiếp tục mạch cảm xúc và suy nghĩ về đất nước ở tương lai:

Mai này con ta lớn lên

Con sẽ mang Đất Nước đi xa

Đến những tháng ngày mơ mộng…

Đất nước không chỉ có ngày hôm qua và hôm nay. Đất nước của ngày mai. Từng thế hệ kế tiếp sẽ làm cho đất nước trường tồn mãi mãi nhờ bàn tay, khối óc và sức mạnh của sự đoàn kết toàn dân.

Trong hoàn cảnh cuộc kháng chiến khốc liệt thời bấy giờ, phải thấy ở những câu thơ trên còn là một khát vọng: Đất nước sẽ hoà bình, đất nước sẽ tươi đẹp và còn nhiều hơn thế nữa.

Những khổ thơ cuối, nhà thơ nêu lên trách nhiệm của cá nhân đối với đất nước

Em ơi em

Đất Nước là máu xương của mình

Phải biết gắn bó và san sẻ

Phải biết hoá thân cho dáng hình xứ sở

Làm nên Đất Nước muôn đời…

Cấu trúc của câu thơ cũng theo kiểu suy luận: Đất nước là … nêu lên một tiền đề. Từ tiền đề ấy, phải biết…/ phải biết… để làm nên … Câu thơ giàu chất duy lý nhưng không lên gân mà trở thành lời nhắn nhủ tha thiết. Ở đây có những từ tượng trưng rất đáng chú ý: máu xương, gắn bó, san sẻ, hoá thân, dáng hình, muôn đời. Sau rất nhiều suy nghĩ cụ thể về đất nước, đến đây nhà thơ khẳng định Đất nước là máu xương của mình. Máu xương là sự sống. Rất ít trường hợp người ta ví một điều gì đó với máu xương, bởi nó có ý nghĩa biểu trưng cho sự thiêng liêng. Đất nước là máu xương có nghĩa là đất nước tồn tại như một sự sống và để có sự sống ấy hẳn phải có rất nhiều hi sinh. Quả đúng như vậy, biết bao con người, bao thế hệ đã ngã xuống cho sự sống còn của đất nước. Vì thế, mỗi một con người phải biết gắn bó và san sẻ. Gắn bó là yêu thương, quan hệ mật thiết với nhau. Từ sự gắn bó ấy mới có thể san sẻ. San sẻ trách nhiệm, san sẻ niềm vui, niềm hạnh phúc cho nhau. Đất nước vĩ đại nhưng đất nước là một thực thể sống. Thực thể ấy không phải là sự tập hợp của những cá nhân rời rạc mà là một cộng đồng. Hoá thân cũng có nghĩa là dâng hiến. Thời bình, người ta dâng hiến sức lực, mồ hôi cho tổ quốc. Thời chiến, người ta dâng hiến cả sự sống của mình. Sự dâng hiến ấy, theo suy ngẫm của nhà thơ, là cuộc hoá thân. Bóng dáng mỗi người đã làm nên bóng dáng quê hương xứ sở, đất nước. Không có sự hoá thân kia làm sao đất nước trường tồn, làm sao có được đất nước muôn đời! Những câu thơ in đậm chất duy lý (khá chặt chẽ, logic) cất lên như tiếng gọi của trái tim, vì thế nó thiết tha, thúc giục lòng người.

Đoạn thơ trên là một đoạn thơ hay trong bài Đất Nước. Nhà thơ đã thể hiện những suy nghĩ mới mẻ của mình về đất nước bằng một giọng trữ tình, ngọt ngào. Câu chuyện về đất nước đối với mỗi người luôn là câu chuyện của trái tim, vừa thiêng liêng, cao cả, cũng vừa gắn bó, thân thiết. Từ suy nghĩ và tình cảm ấy, khi đối diện với kẻ thù của dân tộc, hẳn người ta phải biết làm gì cho Tổ quốc, giang sơn. Ngày nay, đất nước  đã sạch bóng quân thù. Nhưng trách nhiệm của mỗi công dân đối với đất nước vẫn rất cần đặt ra thường xuyên, bởi đó là câu chuyện không bao giờ cũ.

Tư tưởng “Đất Nước của Nhân dân” qua đoạn thơ:

“Những người vợ nhớ chồng còn góp cho Đất Nước những núi Vọng Phu Cặp vợ chồng yêu nhau góp nên hòn Trống Mái

Người học trò nghèo góp cho Đất nước mình núi Bút non Nghiên Gót ngựa của Thánh Gióng đi qua còn trăm ao đầm để lại

Chín mươi chín con voi góp mình dựng đất Tổ Hùng Vương Những con rồng nằm im góp dòng sông xanh thẳm

Con cóc, con gà quê hương cùng góp cho Hạ Long thành thắng cảnh Những người dân nào đã góp tên ông Đốc, ông Trang, bà Đen, bà Điểm Và ở đâu trên khắp ruộng đồng, gò bãi

Chẳng mang một dáng hình, một ao ước, một lối sống ông cha Ôi Đất Nước sau bốn nghìn năm đi đâu ta cũng thấy

Những cuộc đời đã hoá núi sống ta…”

Trọng tâm của đoạn thơ nằm ở phần lí giải: “Ai làm nên Đất Nước?” và bằng lí giải đầy sức thuyết phục của mình, Nguyễn Khoa Điềm đã khẳng định: Nhân dân làm nên đất nước, “Đất Nước này là đất nước của nhân dân”.

a. Nguyễn Khoa Điềm đã có những phát hiện mới mẻ về thiên nhiên địa lí của Đất Nước:

– Để nói lên công lao to lớn của nhân dân trong quá trình dựng nước và giữ nước, nhà thơ đã nhắc đến những danh lam thắng cảnh, những tên đất, tên làng trên mọi miền đất nước từ Nam chí Bắc.

+ Nguyễn Khoa Điềm đã nhìn thấy hình sông, thế núi là sự kết tinh đời sống tâm hồn của nhân dân. Xuất phát từ quan niệm của nhà Phật (hóa thân), tác giả đã trình bày những cảm xúc, suy tưởng của mình: chính nhân dân đã hoá thân thành đất nước “hóa thân cho dáng hình xứ sở” làm nên đất nước vĩnh hằng.

+ Qua cảm nhận của Nguyễn Khoa Điềm, những danh lam thắng cảnh không còn là những cảnh thú thiên nhiên thuần tuý nữa mà đã được cảm nhận thông qua những cảnh ngộ, số phận của nhân dân, được nhìn nhận như là những đóng góp của nhân dân, sự “hoá thân” của những con người không tên không tuổi.

Chúng chỉ trở thành thắng cảnh khi đã gắn liền với cuộc sống của nhân dân, với con người, được tiếp nhận, cảm thụ quan tâm hồn nhân dân và qua lịch sử của dân tộc.

·    Tư tưởng “Đất Nước của Nhân dân” khiến cho những địa danh ngàn đời của Tổ quốc qua cái nhìn sắc sảo đầy khám phá của nhà thơ chính là sự hoá thân của những con người bình dị, vô danh những con người “không ai nhớ mặt đặt tên” “nhưng họ đã làm ra đất nước”:

“Những người vợ nhớ chồng còn góp cho Đất nước những núi Vọng Phu Cặp vợ chồng yêu nhau góp nên hòn Trống Mái”

+ Những địa danh, những hình sông thế núi mang hình người, linh hồn dân tộc. Chúng là sự tượng hình kết tinh đời sống văn hoá tinh thần của nhân dân mang đậm chủ nghĩa nhân văn, nhân đạo Việt Nam.

+ Núi Vọng Phu ở Lạng Sơn, Thanh Hóa, Bình Định…, hòn Trống Mái ở Sầm Sơn là do “những người vợ nhớ chồng” hoặc những “cặp vợ chồng yêu nhau” mà “góp cho”, “góp thêm”, làm đẹp thêm, tô điểm cho  Đất Nước. Núi Vọng Phu, hòn Trống Mái cũng là kết tinh tình yêu thuỷ chung của biết bao người vợ chờ chồng trong chiến tranh liên miên, của sự gắn kết muôn đời, bất chấp mọi bão tố của thời gian:

“Không hoá thạch kẻ ra đi mà hóa thạch kẻ đợi chờ Đợi một dáng hình trở lại giữa đơn côi”

·   Tác giả không chỉ chiêm ngưỡng những hình ảnh núi Bút, non Nghiên mà còn nhìn ra trong đó phẩm chất, truyền thống hiếu học và khát vọng trí tuệ của dân tộc ta từ bao đời nay.

+ Những núi Bút, non Nghiên phô bày vẻ đẹp mỹ lệ giữa đất trời nước Việt hay là hình tượng những người học trò nghèo đã gửi gắm quyết tâm, ước vọng của mình vào đấy:

 

“Người học trò nghèo góp cho Đất nước mình núi Bút non Nghiên”

“Nghèo” nhưng “người học trò” vẫn góp cho đất nước ta “núi Bút non Nghiên”, làm rạng rỡ nền văn hiến Đại Việt, văn hiến Việt Nam. Đó cũng chính là truyền thống hiếu học, vượt khó vươn lên của nhân dân ta.

·   Nhà thơ đã tìm về cội nguồn để cảm nhận sâu sắc dáng hình đất nước. Những hình ảnh thân quen của non sống đất nước gợi lên quá khứ hào hùng với truyền thống đánh giặc ngoại xâm oanh liệt của nhân dân ta qua truyền thuyết Thánh Gióng nhổ tre đánh đuổi giặc Ân:

“Ta như thuở xưa thần Phù Đổng

Vụt lớn lên đánh đuổi giặc Ân

Sức nhân dân khoẻ như ngựa sắt

Chí căm thù ta rèn thép thành roi

Lửa chiến đấu ta phun vào mặt

Lũ sát nhân cướp nước hại nòi”

                                                                                                      (Tố Hữu)

cùng với sự nghiệp dựng nước đầy gian lao của vua Hùng:

“Gót ngựa của Thánh Gióng đi qua còn trăm ao đầm để lại

Chín mươi chín con voi góp mình dựng đất Tổ Hùng Vương”

Ở đây, Nguyễn Khoa Điềm đã ca ngợi vẻ đẹp của Đất Nước về mặt lịch sử và truyền thống. Chính cái “gót ngựa của Thánh Gióng” đã” để lại “cho đất nước bao ao đầm” ở vùng Hà Bắc ngày nay. “Chín mươi chín” núi con Voi đã quần tụ, chung sức chung lòng “góp mình dựng đất tổ Hùng Vương”.

·   Cho đến “những con rồng nằm im” cũng góp phần làm nên “dòng sông xanh thẳm”, “con cóc, con gà quê hương cũng góp cho Hạ Long thành thắng cảnh” và cả những địa danh thật nôm na, bình dị “những ông Đốc, ông Trang, bà Đen, bà Điểm”.

+ “Những con rồng nằm im góp dòng sông xanh thẳm”. Những dòng sông trên đất nước ta là do rồng “nằm im” từ bao đời nay. Nhờ đó mà quê hương ta có “dòng sông xanh thẳm”, thơ mộng cho nước ngọt phù sa, nhiều tôm cá, mênh mông biển lúa bốn mùa.

+ Tư tưởng “Đất Nước của Nhân dân” cũng thể hiện trong kì quan nổi tiếng, những tên tuổi có công với dân với nước:

“Con cóc con gà quê hương cùng góp cho Hạ Long thành thắng cảnh

Những người dân nào đã góp tên ông Đốc, ông Trang, bà Đen, bà Điểm”

Theo cảm nhận của Nguyễn Khoa Điềm, Hạ Long trở thành kì quan, thắng cảnh là nhờ có “con cóc, con gà quê hương cùng góp cho”.

Những tên làng, tên núi, tên sông như “Ông Đốc, Ông Trang, Bà Đen, Bà Điểm ” là do những con người vô danh, bình dị làm nên.

+ Nguyễn Khoa Điềm đã đặt cái nhìn trân trọng của mình vào nhân dân không tên không tuổi, “những  người dân nào” không ai biết cũng làm nên tên núi, tên sông và tất cả những cái bình thường trong cuộc sống hàng ngày của nhân dân cũng hoá thân thành “dáng hình xứ sở”. Những địa danh ở vùng cực Nam đất nước xa xôi này tượng trưng cho tinh thần xả thân vì cộng đồng, đức tính cần cù, siêng năng, dũng cảm trong lao động sáng tạo của nhân dân ta.

+ Để khẳng định và nhấn mạnh tư tưởng “Đất nước của nhân dân” và chính nhân dân vô tận, những người vô danh không tên không tuổi đã làm nên đất nước, ở đoạn thơ trên tác giả đã sử dụng rất thành công điệp từ “góp”, một động từ diễn đạt hành động “cùng mọi người đưa cái riêng của mình vào thành cái chung” (Từ điển Tiếng Việt – trang 758)

+ Đọc đoạn thơ này ta cảm thấy ngạc nhiên thích thú trước những lí giải của Nguyễn Khoa Điềm. Ai ngờ những điạ danh, thắng cảnh quá thân quen lại có khả năng nói được nhiều điều sâu xa như thế. Số phận, cảnh ngộ, công lao của mỗi người đã đóng góp, hoá thân vào Đất Nước. Đất Nước thấm sâu vào tâm hồn, máu thịt của nhân dân.

b. Từ đó, Nguyễn Khoa Điềm đi đến kết luận mang tính khái quát sâu sắc giàu chất suy tư và triết luận về sự hoá thân của nhân dân vào Đất Nước:

–  Tính khái quát của hình tượng thơ cứ được nâng dần lên. Đó là một hình dáng của tư thế truyền thống Việt Nam, truyền thống văn hiến của dân tộc có bốn nghìn năm lịch sử:

“Và ở đâu trên khắp ruộng đồng, gò bãi

Chẳng mang một dáng hình, một ao ước, một lối sống ông cha”

Ôi Đất Nước sau bốn nghìn năm đi đâu ta cũng thấy

Những cuộc đời đã hoá núi sống ta…”

+ Thì ra trên mọi miền Đất Nước của Tổ quốc Việt Nam, những tên núi, tên sông, tên làng, tên bản, tên ruộng đồng , gò bãi… đều mang đậm “một dáng hình, một ao ước, một lối sống ông cha”.

+ Chính cuộc đời của cha ông ta – những người dân không tên tuổi – đã làm nên Đất Nước. Tất cả đều do nhân dân tạo ra, đều kết tinh từ công sức và khát vọng của nhân dân – những con người bình thường, vô danh.

+ Nhưng tầm vóc của Đất Nước và nhân dân không chỉ trên bình diện địa lí “mênh mông” mà còn ở dòng chảy thời gian lịch sử “bốn nghìn năm” “đằng đẵng”.

Nhân dân vô danh sáng tạo ra truyền thống lịch sử của Đất Nước:

·   Khi tái hiện lịch sử, nhiều nhà văn nhà thơ khác thường nhắc tới những triều đại vàng son, những vĩ nhân được lưu danh trong sử sách. Trong bình ngô đại cáo, Nguyễn Trãi từng tự hào khẳng định:”Từ Triệu Đinh Lý Trần bao đời gây nền độc lập – Cùng Hán Đường Tống Nguyên mỗi bên xưng đế một phương”. Nhà thơ Chế Lan Viên cũng từng dặt câu hỏi:”Tổ quốc bao giờ đẹp thế này chăng?” và cũng tự trả lời

“Khi Nguyễn Trãi làm thơ và đánh giặc Nguyễn Du viết Kiều và đất nước hóa thành văn

Khi Nguyễn Huệ cưỡi voi vào cửa bắc

Hưng đạo đại vương diệt quân Nguyên trên sóng Bạch Đằng”

Nguyễn Khoa Điềm lại muốn hướng người đọc đến những người dân bình dị, vô danh:

“Em ơi em

Hãy nhìn rất xa

Vào bốn nghìn năm đất nước

Năm tháng nào cũng người người lớp lớp Con gái con trai bằng tuổi chúng ta”

Tác giả muốn hướng người đọc đến những con người không trực tiếp hiện diện thậm chí có vẻ lặng lẽ trên hành trình mấy ngàn năm dựng nước nhưng chính họ đã sáng tạo nên lịch sử của đất nước. Trong mấy ngàn lớp người nối tiếp nhau không dứt ấy, tác giả “Đất nước” đặc biệt đề cao thế hệ trẻ vì chính họ là tương lai của đất nước. Họ gánh phần người đi trước để lại, tiếp nối phát huy truyền thống của cha anh để rồi họ giữ gìn và truyền lại cho các thế hệ sau.

Bằng cách nói giản dị dân dã, Nguyễn Khoa Điềm đã khám phá và khẳng định đóng góp to lớn của những con người bình thường lặng lẽ:

“Cần cù làm lụng

Khi có giặc người con trai ra trận

Người con gái trở về nuôi cái cùng con

Ngày giặc đến nhà thì đàn bà cũng đánh”

Với đôi bàn tay cần cú nhẫn nại, họ đã khai phá đất đai, mở mang bờ cõi, tạo nên ruộng đồng bờ bãi xóm thôn. Không chỉ dựng nước họ còn góp xương máu để giữ gìn bảo vệ tổ quốc. Họ tự nguyện đảm đương xứ mệnh thiêng liêng một cách tự nguyện như thể đó là điều tất yếu. những người con trai cầm vũ khí ra trận bảo vệ quê hương xứ sở, những người vợ những người mẹ vượt lên nỗi đau, nỗi cô đươn thương nhớ âu lo  để đảm đang, gánh vác trọn vẹn việc nhà.

Đặc biệt tác giả đã nhấn mạnh một truyền thống quý báu của người phụ nữ Việt Nam: đó tinh thần bất khuất kiên cường: “Ngày giặc đến nhà thì đàn bà cũng đánh”. Lời thơ như gợi lại vóc dáng của Bà Trưng Bà Triệu và anh hùng liệt nữ đã làm nên những trang sử hào hùng cho dân tộc.

·   Từ quan niệm đất nước của nhân dân, lịch sử của đất nước không còn là lịch sử của các triều đại, các anh hùng mà là lịch sử của hàng nghìn lớp người “không ai nhớ mặt đặt tên”, của hàng nghìn thế hệ nhân dân vô danh nối tiếp nhau gánh vác trách nhiệm với Đất nước:

“ Năm tháng nào cũng…đàn bà cũng đánh”, “ Những ai đã khuất…chuyện mai sau”

“Có biết bao người con gái, con trai

Trong bốn ngàn lớp người giống ta lứa tuổi”

Lịch sử Đất nước không còn là lịch sử của những ông vua, bà chúa, hay của những triều đại Đinh, Lý, Trần nối tiếp nhau; mà là lịch sử của những thế hệ Nhân dân vô danh, của những lớp người không tên, không  tuổi.

·   Chính vì vậy khi nhớ về quá khứ, Nguyễn Khoa Điềm đã làm sống dậy hình ảnh của mấy ngàn lớp người vô danh

“Nhiều người đã trở thành anh hùng

Nhiều người anh hùng cả anh và em đều nhớ Nhưng em biết không

Có biết bao người con gái con tải

Trong bốn nghìn lớp người giống ta lứa tuổi Họ đã sống và chết

Giản dị và bình tâm Không ai nhớ mặt đặt tên

Nhưng họ đã làm nên Đất Nước “

Nhà thơ không nhắc lại tên tuổi của những vĩ nhân thường được lưu danh trong sử sách bởi lẽ đó là những anh hùng mọi người đều biết, công lao của những vĩ nhân ấy đã được ca ngợi tôn thờ. ở đây Nguyễn Khoa Điềm muốn tô đậm tầm vóc lớn lao phi thường của những con người nhỏ bé, bình thường. Họ chính là nhân dân, là bốn nghìn lớp người chính bằng cuộc sống của mình đã làm nên đất nước

Trong chính những câu thơ này, Nguyễn Khoa Điềm đã phát hiện nét đẹp đặc trưng của tâm hồn họ: Đó là sự giản dị, hi sinh thầm lặng, nhân dân không ồn ào phô trương, không tô vẽ cho mình. Nhưng chính điều đó khiến nhân dân trở nên to lớn vĩ đại. Thế hệ này nối tiếp thế hệ kia. Họ lặng lẽ tạo dựng và gìn giữ cho ta tài sản vô gái này. Vẻ đẹp thầm lặng bình dị này của nhân dân cũng đã được nhà thơ Nguyễn Duy ca ngợi

“Và vì thế nhân dân thường ít nói

Như mẹ tôi lặng lẽ suốt đời

Và như thế nhân dân cao vời vợi

Hơn những ngôi sao trơ trọi cuối trời”

Nhân dân vô danh sáng lập ra dòng chảy văn hóa của Đất Nước, giữ gìn và truyền lại Đất Nước cho đời sau:

– Công lao vĩ đại của nhan dân sẽ được nhà thơ chứng minh bằng hàng loạt dẫn chứng cụ thể, giàu sức thuyết phục

“Họ giữ và truyền cho ta hạt lúata trồng

Họ chuyền lửa qua mỗi nhà, từ hòn than qua con cúi

Họ truyền giọng điệu mình cho con tập nói

Họ gánh theo tên làng tên xã trong mỗi chuyến di dân

Họ dắp đập be bờ cho người sau trồng cây hái trái

Có ngoại xâm thì chống ngoại xâm

Có nội thù thì vùng lên đánh bại

Để đất nước này là Đất Nước Nhân dân”

Không phải ngẫu nhiên mà tất cả các dòng thơ đều bắt đầu bằng điệp từ “họ”. Bằng cách nói này Nguyễn Khoa Điềm lại một lần nữa khắc sâu ấn tượng về vai trò không thể thiếu của nhân dân. Nhân dân không chỉ làm nên lịch sử mà còn sáng tạo mội giá trị vật chất, tinh thần cho đất nước

Điệp khúc “truyền cho” gợi liên tưởng đến một cuộc tiếp sức vĩ đại trên hành trình mấy ngàn năm lịch sử đằng đẵng. bằng hệ thồng hình ảnh giàu ý nghĩa ẩn dụ sâu xa,tác giả đã khám phá và ngợi ca công lao vĩ đại của nhân dân. Đó là hình ảnh “hạt gạo” bé nhỏ bình thường nhưng đã kết tinh sức lực, tâm huyết trí tuệ của bao nhiêu thế hệ con người. Ai đã là người tìm ra cây lúa giữa hàng ngàn loài cây hoang dại khác?. Ai là người đã tìm ra cách gieo cấy vun trồng để có được vụ mùa đầu tiên? Và ai đã rìm ra cách xay giã giần sàng biến hạt lúa kia thành hạt gạo trắng ngần. Hành trình ấy đòi hỏi phải có sự tiếp nối của nhiều thế hệ, người đi trước tích lũy kinh nghiệm và truyền lại, người đi sau đón nhận, sáng tạo và hoàn thiện..

Nhân dân giữ gìn và truyền cho ta ngọn lửa. Đó là ngọn lửa được thắp lên cho mỗi ngôi nhà, ngọn lửa mang theo hơi ấm và sự sống cho con người. Song đó cũng là ngọn lửa biểu tựng cho tình cảm cộng đồng ấm áp “tối lửa tắt đèn có nhau” của người Việt

Song có lẽ công lao vĩ đại nhất của nhân dân chính là sự gìn giữ và bảo tồn tiếng mẹ đẻ, linh hồn của dân tộc. Chiến công phi thường ấy được nhà thơ thể hiện bằng hình ảnh rất đôic thân quen, bình dị “Họ truyền giọng điệu mình cho con tập nói. Đó là hình ảnh những người cha người mẹ dạy con mình bập bẹ  ngh tiếng nói đầu tiên. Bằng hình ảnh tưởng chừng như chẳng có gì đáng kể ấy, họ đã gìn giữ tiếng mẹ đẻ từ thế hệ này sang thế hệ khác. Phải nhìn về quá khứ mới nhing thấy hết công lao của nhân dân: 1000 năm bấc thuộc, 100 năm Pháp thuộc, kẻ thù tìm mọi cách để đồng hóa, để xóa đi bản sắc riêng của dân tộc này. Vậy mà ông cha ta vẫn gìn giữ vẹn nguyên tiếng Việt.

Cội nguồn để tạo nên sức mạnh kì diệu ấy chính là tình yêu thắm thiết sâu nặng dành cho quê hương xứ sở. Khi khai phá những vùng đất mới, họ không chỉ gánh trên vai những vật dụng thiết yếu cho cuộc sống hàng ngày mà còn mang theo cả tên làng, tên xã, tình quyến luyến với quê hương, thủy chung với cội nguồn và cũng là truyền thống của người Việt

Bằng sức mạnh của tình yêu đất nước, nhân dân đã tạo nên không gian địa lý, khai phá ruộng đồng cho các thế hệ sau “trồng cây hái trái”. Câu thơ đã tái hiện lại bao nhiêu thế hệ đã đổ mồ hôi, góp công sức cho những dải đê điều, mương máng bao quanh những xóm làng bưof bãi.

Không chỉ tạo dựng ruộng đồng, núi sông, bờ cõi, gìn giữ những truyền thống đạo đức, nhân dân còn góp phần vào sự nghiệp giữ nước

“Có ngoại xâm thì chống ngoại xâm

Có nội thù thì vùng lên đánh bại

Để Đất Nước này là

Đất Nước Nhân dân”

Tác giả đã khái quát và ngợi ca lịch sử hào hùng của một dân tộc trên suốt hành trình dựng nước và giữ nước. Dân tộc ấy chưa bao giờ chịu cúi đầu khuất phục trước bất kỳ thế lực nào. Nhân dân không chỉ đánh đuổi ngoại xâm để giành lấy tự do mà còn tiêu diệt nội thù để đất nước hòa bình, thống nhất. nhân dân đã tạo lập và truyền lại cho ta đất nước của nhân dân hiền hòa, bình dị mà anh hùng, quật cường như nhà thơ Huy Cận từng ca ngợi

“Sống vững chãi 4000 năm sừng sững

Lưng đeo gươm tay miệt mài bút hoa

Trong lạ thực sáng hai bờ suy tưởng

Sống hiên ngang mà nhân ái, chan hòa”

·   Như vậy, cũng chính nhân dân là người đã sáng lập, giữ gìn dòng chảy văn hoá của đất nước: “Họ giữ và truyền cho ta hạt lúa ta trồng – Họ truyền lửa…Họ truyền giọng điệu… – Họ gánh theo tên xã, tên làng…”. Một mật độ lớn các động từ được xếp cạnh nhau làm nổi lên hình tượng thật tầm vóc và kì vĩ của nhân dân – những người “làm ra Đất Nước” “Họ giữ và truyền cho ta hạt lúa ta trồng

Họ truyền lửa cho mỗi nhà từ hòn than qua con cúi

Họ truyền giọng điệu mình cho con tập nói

Họ gánh theo tên xã, tên làng trong mỗi chuyến di dân

Họ đắp đập be bờ cho người sau trông cây hái trái

Có ngoại xâm thì chống ngoại xâm

Có nội thù thì vùng lên đánh bại”

Tư tưởng “Đất Nước của Nhân dân”:

“Để Đất Nước này là Đất Nước Nhân dân

Đất Nước của Nhân dân, Đất Nước của ca dao thần thoại”

Đó là Đất Nước thuộc về Nhân dân, mang tính chất Nhân dân và có chiều sâu của truyền thống văn hóa Nhân dân.

Tư tưởng đất nước của nhân dân là cơ sở đem lại những khám phá mới mẻ, độc đáo của Nguyễn Khoa Điềm vệ hình tượng đất nước.Tư tưởng đất nước của nhân dân đã có một quá trình phát triển lâu dài trong lịch sử văn học dân tộc (Nguyễn Trãi, Nguyễn Đình Chiểu…). Trong văn học cách mạng, tư tưởng đất nước của nhân dân cũng đã được nhiều nhà thơ đề cập đến ( Bài thơ Hắc Hải, Đất nước của Nguyễn Đinh Thi, Tre Việt Nam của Nguyễn Duy). Tuy nhiên, để tư tưởng này trở thành cảm hứng chủ đạo, xuyên thấm vào mọi biểu hiện nhỏ bé tinh tế nhất của hình tượng đất nước thì đó là một đóng góp đặc sắc của Nguyễn Khoa Điềm. Nó cho thấy sự kế thừa và kết tinh ở một trình độ mới của tư tưởng đất nước của nhân dân trong văn học.

Những đặc sắc về nghệ thuật:

Góp phần quan trọng tạo nên vẻ đẹp của hình tượng đất nước trong đoạn thơ là một ngôn ngữ thấm đẫm  chất liệu và hương sắc của văn hoá dân gian. Ngôn ngữ không bao giờ chỉ là ngôn ngữ. Đằng sau ngôn ngữ là một quan niệm. Ngôn ngữ mang đậm màu sắc văn hoá dân gian ở đây là sự thấm nhuần quan niệm đất nước của nhân dân mang tính chất nhân dân, gắn liền với truyền thống văn hoá của nhân dân. Nói cách khác, quan điểm đất nước của nhân dân không chỉ là suy tưởng bên trong mà còn được hiện thực hoá bằng chính hình thức và ngôn ngữ thơ. Giọng điệu thơ trầm lắng, chất chứa suy tư. Vừa như bộc bạch giãi bầy vừa như tự nói với chính mình. Một giọng điệu như thế khiến hình tượng đất nước hiện lên vừa trang nghiêm thành kính, vừa gần gũi thân thiết.