Bài 24: Việt Nam trong những năm Chiến tranh thế giới thứ nhất (1914-1918)

Bài 24: Việt Nam trong những năm Chiến tranh thế giới thứ nhất (1914-1918)

A. KIẾN THỨC CƠ BẢN

I. Tình hình kinh tế - xã hội

1. Những biến động về kinh tế

* Ý đồ và biện pháp của Pháp đối với thuộc địa bề mặt kinh tế

- Ý đồ: vơ vét tối đa của cải để gánh đỡ những tổn thất và thiếu hụt của Pháp trong chiến tranh.

- Biện pháp: tăng thuế, bắt dân mua công trái, quyên góp; vơ vét lương thực, kim loại.

* Tác động của chính sách kinh tế của Pháp đến nền kinh tế Việt Nam.

- Kích thích sự phát triển của công nghiệp, giao thông vận tải.

- Làm tổn hại đến nền nông nghiệp trồng lúa Việt Nam, bần cùng hóa nông dân.

2. Tình hình phân hóa xã hội

Chính sách của Pháp và những biến đổi về kinh tế đã tác động mạnh mẽ đến xã hội Việt Nam.

- Nông dân chịu nạn bắt lính (chủ yếu là nông dân), chiếm đoạt ruộng đất, sưu cao thuế nặng, bão lụt, hạn hán làm cho đời sống nông dân ngày càng bần cùng.

- Công nhân ngày càng lớn lên về số lượng. Công nhân mỏ năm 1913 là 12.000 người, năm 1916 là 17.000 người, công nhân cao su tăng năm lần...

- Tư sản Việt Nam đã thoát khỏi sự kiềm chế của tư bản Pháp nhưng vẫn chưa trở thành một giai cấp.

- Các tầng lớp tiểu tư sản phát triển về số lượng.

II. Phong trào đấu tranh vũ trang trong chiến tranh

1. Hoạt động của Việt Nam Quang phục hội

- Tổ chức các cuộc bạo động.

- Địa bàn: Dọc theo biên giới Việt-Trung, miền Trung Việt Nam (Lao Bảo, Quảng Trị).

- Thành phần: công nhân, viên chức hỏa xa.

- Kết quả: thất bại.

2. Cuộc vận động khởi nghĩa của Thái Phiên và Trần Cao Vân (1916)

- Địa bàn: Trung Kì.

- Lãnh đạo: Thái Phiên, Trần Cao Vân, vua Duy Tân.

- Thành phần chủ yếu: nhân dân và binh lính người Việt Nam.

- Kết quả: thất bại.

3. Cuộc khởi nghĩa của binh lính Thái Nguyên (1917)

- Địa bàn: Thái Nguyên.

- Lãnh đạo: Trịnh Văn Cấn và Lương Ngọc Quyến.

- Thành phần chủ yếu: binh lính.

- Diễn biến: Đêm 30 rạng sáng 31-8-1917, quân khởi nghĩa tấn công làm chủ các công sở, phá nhà tù, giải phóng tù nhân, (trừ trại lính Pháp). Quân khởi nghĩa làm chủ thị xã, giương cao cờ “Nam binh phục quốc”, tuyên bố Thái Nguyên độc lập, đặt quốc hiệu là Đại Hùng, vạch tội ác giặc Pháp, kêu gọi nhân dân vùng lên khôi phục độc lập.

Thực dân Pháp điều quân đàn áp, nghĩa quân rút lui, sáu tháng sau thì tan rã.

4. Những cuộc khởi nghĩa vũ trang của đồng bào các dân tộc thiểu số

* Tại Tây Bắc

- Tháng 11-1914 nổ ra cuộc khởi nghĩa của đồng bào Thái dọc biên giới Việt-Lào, đến cuối năm 1915 làm chủ cả vùng Tây Bắc. Đến tháng 3-1916 bị thực dân Pháp đàn áp.

- Năm 1918, đồng bào Mông ở Lai Châu khởi nghĩa dưới sự lãnh đạo của Giàng Tả Chay thu hút hết các dân tộc ở Tây Bắc hoạt động trên địa bàn 40.000 km2, có trận nghĩa quan diệt hàng trăm tên địch. Các khởi nghĩa kéo dài đến năm 1921, thực dân Pháp phải nới rộng ách kìm kẹp áp bức các dân tộc thiểu số ở Tây Bắc.

* Tại Đông Bắc

Tháng 11-1918, binh lính đồn Bình Liêu nổi dậy lôi cuốn ging bào các dân tộc Hán, Nùng, Dao. Địa bàn hoạt động từ Làng Tiên Yên đến biển, uy hiếp cả vùng mỏ Quảng Yên lan sang các hải đảo từ Móng Cái đến Hải Phòng.

Đến năm 1919, giặc Pháp đàn áp.

* Tại Tây Nguyên

- Đồng bào các dân tộc thiểu số nhiều lần nổi dậy, lớn nhất là cuộc khởi nghĩa của đồng bào Mnông do No Trang Lơng lãnh đạo. Nghĩa quân thắng nhiều trận lớn, thực dân Pháp phải bỏ vùng cao Nguyên Mnông.

- Từ năm 1916, thực dân Pháp tổ chức bao vây triệt đường tiếp tế muối. Khởi nghĩa kéo dài đến năm 1935 mới chấm dứt.

5. Phong trào Hội kín ở Nam Kì

- Các Hội kín: Thiên địa hội, Nghĩa hòa hội, Phục hưng hội...

- Các Hội kín đề cao vai trò của bùa chú và tôn giáo để dễ tuyên truyền vận động và hoạt động trong quần chúng.

- Hoạt động nổi bật là vụ đột nhập vào Sài Gòn mưu phá khám lớn cứu Phan Xích Long.

- Thực chất là phong trào đấu tranh của nông dân Nam Bộ.

III. Sự xuất hiện khuynh hướng cứu nước mới

1. Phong trào công nhân

- Ngày 22-2-1916, nữ công nhân nhà máy sàng Kế Bào nghỉ việc bảy ngày chống cúp phạt lương. Cũng năm 1916, gần 100 công nhân mỏ Hà Tu đánh trả bọn lính khố xanh.

- Các tháng 6 và 7-1917, 22 công nhân mỏ bôxít Cao Bằng bỏ trốn, 47 công nhân Thái Bình mới đến cũng chống lại bọn cai thầu.

- Ngày 31-8-1917, nhiều công nhân các mỏ than Phấn Mễ, Na Dương tham gia khởi nghĩa Thái Nguyên, Cùng năm công nhân mỏ Hà Tu biểu tình đòi thả các công nhân bị bắt.

- Năm 1918, 700 công nhân mỏ Hà Tu đốt nhà tên cai thầu vì tội ngược đãi công nhân.

Phong trào công nhân trong bốn năm chiến tranh đã mang nét riêng thể hiện rõ bản chất đoàn kết, kỉ luật của giai cấp công nhân. Tuy nhiên các cuộc đấu tranh chủ yếu đòi quyền lợi kinh tế, chưa ý thức được vai trò chính trị của giai cấp mình, tổ chức chưa chặt chẽ, các cuộc đấu tranh nổ ra lẻ tẻ, mang tính tự phát.

2. Buổi đầu hoạt động cứu nước của Nguyễn Ái Quốc

- Nguyễn Ái Quốc sinh ngày 19-5-1890 tại xã Kim Liên, huyện Nam Đàn, tỉnh Nghệ An. Sinh ra trong một gia đình trí thức yêu nước, lớn lên trên miền quê có truyền thống đấu tranh quật khởi.

- Nguyễn Ái Quốc có chí đánh đuổi giặc Pháp, giải phóng đồng bào từ rất sớm.

- Người khâm phục tinh thần yêu nước của các bậc tiền bối nhưng không tán thành con đường cứu nước của họ. Người quyết định sang phương Tây tìm con đường cứu nước mới.

- Ngày 5-6-1911, rời bến cảng Nhà Rồng, Người ra đi tìm đường cứu nước. Người đã đi qua nhiều nước và đã nhận thấy: ở đâu bọn đế quốc thực dân cũng tàn bạo độc ác, ở đâu những người lao động cũng bị áp bức bóc lột dã man.

- Cuối năm 1917, Nguyễn Ái Quốc từ Anh trở về Pháp, tham gia hoạt động trong Hội những người Việt Nam yêu nước. Người viết báo, truyền đơn, tranh thủ các diễn đàn... để tố cáo thực dân và tuyên truyền cho cách mạng Việt Nam.. Người còn tham gia đấu tranh cho binh lính, thợ thuyền Việt Nam sớm hồi lương. Sống làm việc trong phong trào công nhân Pháp, tiếp nhận ảnh hưởng của Cách mạng tháng Mười Nga, tư tưởng của Người có những chuyển biến mạnh mẽ.

Những hoạt động bước đầu của Người là cơ sở quan trọng để Người xác định con đường cứu nước đúng đắn cho dân tộc Việt Nam.