BÀI 22. NHÂN DÂN HAI MIỀN TRỰC TIẾP CHIẾN ĐẤU CHỐNG ĐẾ QUỐC MỸ XÂM LƯỢC NHÂN DÂN MIỀN BẮC

BÀI 22. NHÂN DÂN HAI MIỀN TRỰC TIẾP CHIẾN ĐẤU CHỐNG ĐẾ QUỐC MỸ XÂM LƯỢC NHÂN DÂN MIỀN BẮC

 

I. CHIẾN ĐẤU CHỐNG CHIẾN LƯỢC “CHIẾN TRANH CỤC BỘ” CỦA ĐẾ QUÔC MỸ Ở MIỀN NAM (1965 - 1968)

1. Chiến lược “Chiến tranh cục bộ” của Mĩ ở miền Nam
Âm mưu Thủ đoạn
Chiến lược “chiến tranh đặc biệt” bị phá sản, Mỹ phải chuyển sang chiến lược “chiến tranh cục bộ” ở miền Nam và mở rộng chiến tranh  phá hoại ra miền Bắc.
Đây là hình thức chiến tranh xâm lược thực dân kiểu mới, được tiến hành bằng  quân Mỹ, đồng minh và quân đội Sài Gòn với phương tiện chiến tranh hiện đại. Quân số lúc cao nhất (1969) lên đến 1,5 triệu tên (Mỹ hơn 0,5 triệu)
Mỹ nhanh chóng tạo ra ưu thế về binh lực và hỏa lực   có thể áp đảo quân chủ lực ta  bằng chiến lược: “tìm diệt”, giành thế chủ động trên chiến trường,  đẩy  ta về phòng ngự, buộc ta phải phân tán  nhỏ…làm cho chiến tranh tàn lụi dần.
Với ưu thế về quân sự, Mỹ cho mở cuộc hành quân “tìm, diệt” vào Vạn Tường và 2 cuộc phản công 2 mùa khô 1965 - 1966 và 1966 - 1967 nhằm “tìm diệt” và “bình định” vào vùng căn cứ kháng chiến. (vùng “đất thánh Việt Cộng) hòng tiêu diệt cơ quan đầu não và lực lượng kháng chiến của ta.

2. Chiến đấu chống “chiến tranh cục bộ”của Mỹ
Quân dân ta chiến đấu chống “chiến tranh cục bộ” bằng sức mạnh cả dân tộc, của tiền tuyến và hậu phương với ý chí quyết chiến quyết thắng giặc Mỹ xâm lược.
Vạn Tường (Quãng Ngãi)
18/08/1965: Mĩ huy động 9000 quân, nhiều xe tăng, xe bọc thép, máy bay… tấn công Vạn Tường.
Kết quả: Sau 1 ngày chiến đấu, ta loại khỏi vòng chiến 900 địch, bắn cháy hàng chục xe tăng, xe bọc thép và hạ nhiều máy bay…..
Ý nghĩa: Vạn Tường được coi là “Ấp Bắc” đối với Mĩ, mở đầu cho cao trào “tìm Mĩ đánh, tìm ngụy diệt” trên khắp miền Nam.
Vạn Tường được coi là “Ấp Bắc” đối với quân Mĩ, mở đầu cao trào “Tìm Mĩ mà đánh, lùng ngụy mà diệt” trên khắp miền Nam.
Cuộc tấn công 2 mùa khô
Mùa khô thứ nhất Mùa khô thứ hai
Mĩ huy động 72 vạn quân (hơn 22 vạn Mĩ và đồng minh) mở 450 cuộc hành quân, trong đó có 5 cuộc hành quân “tìm diệt” lớn, nhằm vào hai hướng chiến lược chính: Liên khu V và Đông Nam Bộ với mục tiêu đánh bại Quân chủ lực giải phóng.
Ta tấn công khắp nơi, giành nhiều thắng lợi, loại khỏi vòng chiến 104.000 địch (có 45.500 Mỹ và đồng minh), bắn rơi 1430 máy bay.
Mỹ huy động 98 vạn quân (44 vạn Mỹ và đồng minh), mở 895 cuộc hành quân, có 3 cuộc hành quân “bình định” và “tìm diệt” lớn, lớn nhất là Gian-xơn Xi-ti đánh vào căn cứ Dương Minh Châu (Bắc Tây Ninh) nhằm tiêu diệt quân chủ lực và cơ quan  đầu não của ta.
Quân dân ta loại khỏi vòng chiến 151.000 địch, bắn rơi 1231 máy bay.
Ở nông thôn, quần chúng được sự hỗ trợ của lực lượng vũ trang đứng lên đấu tranh chống ách kìm kẹp của địch, phá từng mảng “ấp chiến lược”
Ở thành thị, công nhân, các tầng lớp lao động, học sinh, sinh viên… đấu tranh đòi Mĩ rút về nước, đò quyền tự do dân chủ.
 
 
3. Cuộc tổng tiến công và nổi dậy Xuân Mậu Thân 1968
Ý nghĩa
  • Làm lung lay ý chí xâm lược của Mĩ.
  • Buộc Mĩ phải tuyên bố “phi Mĩ hoá” chiến tranh (tức thừa nhận thất bại chiến tranh cục bộ), chấm dứt chiến tranh phá hoại miền Bắc, chấp nhận đến bàn hội nghị Paris đàm phán về chấm dứt chiến tranh ở Việt Nam.

II. MIỀN BẮC VỪA CHIẾN ĐẤU CHỐNG CHIẾN TRANH PHÁ HOẠI LẦN THỨ NHẤT CỦA MỸ, VỪA SẢN XUẤT (1965 - 1968).

Mĩ tiến hành chiến tranh bằng không quân và hải quân phá hoại miền Bắc
Ngày 5/8/1964, Mĩ dựng lên "sự kiện vịnh Bắc Bộ" cho máy bay ném bom, bắn phá một số nơi ở miền Bắc (cửa sông Gianh, Vinh - Bến Thủy)...
Ngày 7/2/1965, Mĩ ném bom thị xã Đồng Hới, đảo Cồn Cỏ... chính thức gây ra cuộc chiến tranh phá hoại bằng không quân và hải quân đối với miền Bắc.
* Âm mưu
-       Phá tiềm lực kinh tế - quốc phòng, phá công cuộc xây dựng CNXH ở miền Bắc.
-       Ngăn chặn chi viện từ bên ngoìa vào miền Bắc và từ  miền Bắc vào miền Nam.
-       Uy hiếp tinh thần, làm lung lay quyết tâm chống Mỹ của nhân dân Việt Nam.

III. CHIẾN ĐẤU CHỐNG CHIẾN LƯỢC “VIỆT NAM HÓA” VÀ "ĐÔNG DƯƠNG HÓA CHIẾN TRANH“ CỦA MỸ (1969 - 1973)

1. Chiến lược “Việt Nam hóa chiến tranh” và “Đông Dương hóa chiến tranh” của Mỹ
Sau thất bại của chiến lược “Chiến tranh cục bộ”, Mĩ phải chuyển sang chiến lược “Việt Nam hóa chiến tranh” và “Đông Dương hóa chiến tranh”
“Việt Nam hóa chiến tranh” được tiến hành bằng quân đội Sài Gòn là chủ yếu, có sự phối hợp của hỏa lực và không quân Mĩ, vẫn do cố vấn Mĩ chỉ huy.
Thực chất là tiếp tục thực hiện âm mưu “Dùng người Việt đánh người Việt”.
Mở rộng xâm lược Campuchia, Lào, thực hiện âm mưu “Dùng người Đông Dương đánh người Đông Dương”.
Mĩ tăng viện trợ giúp quân số ngụy tăng lên 1 triệu người cùng với trang thiết bị hiện đại để quân ngụy tự gánh vác được chiến tranh.
Lợi dụng mâu thuẫn Trung - Xô, thỏa hiệp với Trung Quốc, hòa hoãn với Liên Xô nhằm hạn chế sự giúp đỡ của các nước này đối với cuộc kháng chiến của nhân dân ta.
2. Chiến đấu chống chiến lược “Việt Nam hóa chiến tranh” và “Đông Dương hóa chiến tranh” của Mỹ
-       Chiến đấu chống “Việt Nam hóa chiến tranh” là chống lại cuộc chiến tranh toàn diện được tăng cường và mở rộng ra toàn Đông Dương. Ta vừa chiến đấu trên chiến trường vừa đấu tranh trên bàn đàm phán với địch.
-       1969: thực hiện lời chúc Tết của Bác Hồ, cả nước đẩy mạnh cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước.
 
Thắng lợi về chính trị Thắng lợi quân sự:
Ngày 6/6/1969, Chính phủ cách mạng lâm thời Cộng hòa miền Nam Việt Nam thành lập, được 23 nước công nhận, 21 nước đặt quan hệ ngoại giao.
Ngày 2/9/1969, Chủ tịch Hồ Chí Minh qua đời là một tổn thất lớn đối với cách mạng.
Ngày 24 - 25/04/1970, Hội nghị cấp cao 3 nước Việt Nam – Lào - Campuchia họp, quyết tâm đoàn kết chống Mĩ.
Ở các nơi khác, phong trào đấu tranh của các tầng lớp nhân dân và sinh viên, học sinh nổ ra liên tục.
Quần chúng nổi dậy chống “bình định”, phá “Ấp chiến lược”. Đầu năm 1971, cách mạng làm chủ thêm 3600 ấp với 3 triệu dân.
Hội nghị ba nước Đông Dương. Ảnh của nhà nhiếp ảnh Lâm Hồng Long chụp năm 1970. Một bố cục dung dị, chiếu sáng bằng đèn flash, thành công của tấm ảnh là nụ cười của bốn nhân vật trong ảnh và cái khoác tay hữu nghị của cố Thủ tướng Phạm Văn Đồng trong khi ba người kia đều vỗ tay.
 
30/4 – 30/6/1970, quân đội Việt Nam phối hợp với quân dân Campuchia đập tan cuộc hành quân xâm lược Campuchia của 10 vạn quân Mĩ và quân đội Sài Gòn, loại khỏi vòng chiến 17.000 tên địch, giải phóng nhiều vùng đất rộng lớn với 4,5 triệu dân.
Từ 12/02 đến 23/03/1971, quân dân Việt - Lào đập tan cuộc hành quân “Lam Sơn 719” của Mĩ và quân Sài Gòn, loại khỏi vòng chiến 22.000 địch, giữ vững hành lang chiến lược của cách mạng Đông Dương.
 
 
Cuộc Tiến công chiến lược 1972
30/3/1972, quân ta bất ngờ mở cuộc tiến công chiến lược vào Quảng Trị, lấy Quảng Trị làm hướng tấn công chủ yếu, rồi phát triển rộng khắp miền Nam.
Cuối 6/1972, quân ta chọc thủng ba phòng tuyến Quảng Trị, Tây Nguyên, Đông Nam Bộ, diệt 20 vạn quân Sài Gòn, giải phóng nhiều vùng đất đai rộng lớn.
Sau đó, địch phản công mạnh, gây cho ta nhiều thiệt hại. Mĩ tiến hành trở lại chiến tranh phá hoại miền Bắc.
Ý nghĩa
  • Giáng đòn mạnh vào chiến lược “Việt Nam hóa chiến tranh”.
  • Buộc Mĩ phải tuyên bố “Mĩ hóa” trở lại cuộc chiến tranh (tức thừa nhận sự thất bại của chiến lược Việt Nam hóa chiến tranh).

IV. MIỀN BẮC KHÔI PHỤC VÀ PHÁT TRIỂN KINH TẾ XÃ HỘI, CHIẾN ĐẤU CHỐNG CHIẾN TRANH PHÁ HOẠI LẦN THỨ HAI CỦA MỸ (1969 - 1973)

Miền Bắc vừa  chiến đấu chống chiến tranh phá hoại lần II, vừa sản xuất và làm nghĩa vụ hậu phương:
Âm mưu và thủ đoạn của Mỹ Ngày 6/4/1972, Mỹ ném bom một số nơi thuộc khu IV cũ.
Ngày 16/4, chính thức tiến hành chiến tranh không quân phá hoại miến Bắc lần II, sau đó phong tỏa cảng Hải Phòng, các cửa sông, luồng lạch, vùng biển miền Bắc.
Phá tiềm lực kinh tế - quốc phòng, phá công cuộc xây dựng CNXH ở miền Bắc.
Ngăn chặn chi viện từ bên ngoaì vào miền Bắc và từ  miền Bắc vào miền Nam.
Uy hiếp tinh thần, làm lung lay quyết tâm chống Mỹ của nhân dân Việt Nam.
Cứu nguy cho chiến lược “Việt Nam hóa chiến tranh”.
Miền Bắc vừa  chiến đấu chống chiến tranh phá hoại lần II, vừa sản xuất và làm nghĩa vụ hậu phương Ngày 6/4/1972, Mĩ ném bom một số nơi thuộc khu IV cũ.
Ngày 16/4/1972, Níchxơn chính thức tiến hành chiến tranh không quân phá hoại miền Bắc lần II,
9/5/1972, Mĩ phong tỏa cảng Hải Phòng, các cửa sông, luồng lạch, vùng biển miền Bắc.
Miền Bắc chủ động, kịp thời chống trả địch ngay từ đầu
Từ 14/12/1972, Níchxơn mở cuộc tập kích chiến lược đường không bằng máy bay 52 vào Hà Nội, Hải Phòng và một số thành phố trong 12 ngày đêm (từ 18/12/1972 đến 29/12/1972)  nhằm giành thắng lợi quân sự quyết định, buộc ta ký hiệp định có lợi cho Mĩ.
Quân dân miền Bắc bắn rơi 81 máy bay, bắt sống 43 phi công Mĩ, đập tan cuộc tập kích chiến lược đường không bằng máy bay B52.
-> Được coi như trận “Điện Biên Phủ trên không”
Tính chung trong chiến tranh phá hoại lần II, ta hạ 735 máy bay (61 B52, 10 F111), 125 tàu chiến, loại khỏi vòng chiến hàng trăm phi công.
15/01/1973,  Mĩ phải tuyên bố ngừng các hoạt động chống phá miền Bắc, ký Hiệp định Paris về chấm dứt chiến tranh, lập lại hòa bình ở Việt Nam.
Miền Bắc chi viện miền Nam Đảm bảo tiếp nhận hàng viện trợ từ bên ngoài và chi viện theo yêu cầu của tiền tuyến miền Nam, cả chiến trường Lào và Campuchia.
1969 – 1971, hàng chục vạn thanh niên nhập ngũ, 60% vào miền Nam, Lào, Campuchia.
Năm 1972, 22 vạn thanh niên bổ sung cho lực lượng vũ trang.

V. Hiệp định Paris về chấm dứt chiến tranh lập lại hòa bình ở Việt Nam

-       Hoa Kỳ và các nước cam kết tôn trọng độc lập, chủ quyền thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ của Việt Nam.
-       Hai bên ngừng bắn ở miền Nam lúc 24 giờ ngày 27/01/1973 và Hoa Kì cam kết chấm dứt mọi hoạt động chống phá miền Bắc Việt Nam.
-       Hoa Kỳ rút hết quân viễn chinh và quân đồng minh, phá hết các ­căn cứ quân sự Mỹ, cam kết không tiếp tục can thiệp vào nội bộ của miền Nam Việt Nam.
-       Nhân dân miền Nam tự quyết định tương lai chính trị thông qua tổng tuyển cử tự do.
-       Các bên công nhận thực tế miền Nam Việt Nam có 2 chính quyền, 2 quân đội, 2 vùng kiểm soát và 3 lực lượng chính trị.
-       Hai bên ngừng bắn, trao trả cho nhau tù binh và dân thường bị bắt.
-       Hoa Kỳ cam kết góp phần vào việc hàn gắn vết thương chiến tranh ở Việt Nam và Đông Dương, thiết lập quan hệ bình thường cùng có lợi với Việt Nam.
Ý nghĩa lịch sử
-       Là thắng lợi của sự kết hợp giữa đấu tranh chính trị, quân sự, ngoại giao, là kết quả của cuộc đấu tranh kiên cường, bất khuất của quân dân ta trên cả 2 miền đất nước.
-       Mở ra bước ngoặt mới cho cách mạng Việt Nam, tạo thời cơ thuận lợi để nhân dân ta tiến lên giải phóng hoàn toàn miền Nam.