Bài 21: Phong trào yêu nước chống Pháp của nhân dân Việt Nam trong những năm cuối thế kỉ XIX

Bài 21: Phong trào yêu nước chống Pháp của nhân dân Việt Nam trong những năm cuối thế kỉ XIX

I. Phong trào Cần vương bùng nổ

1. Cuộc phản công quân Pháp của phái chủ chiến tại kinh thành Huế và sự bùng nổ phong trào Cần vương

a. Nguyên nhân

Phe chủ chiến trong triều đình ra sức chuẩn bị lực lượng để chiến đấu.

Thực dân Pháp âm mưu tiêu diệt phe chủ chiến do Tôn Thất Thuyết đứng đầu.

Biết được âm mưu của Pháp, Tôn Thất Thuyết quyết định ra tay trước.

b. Diễn biến

- Đêm rạng sáng 5-7-1885, trong khi Đờcuốcxi đang tổ chức yến tiệc tại tòa Khâm sức Pháp ở Huế, Tôn Thất Thuyết hạ lệnh cho các đạo quân tấn đồn Mang Cá và Tòa Khâm sứ.

- Sáng 5-7-1885, quân Pháp phản công, Tôn Thất Thuyết phải đưa vua Hàm Nghi ra sơn phòng Tân Sở (Quảng Trị).

- Ngày 13-7-1885, Tôn Thất Thuyết lấy danh nghĩa vua Hàm Nghi xuống chiếu Cần vương, kêu gọi văn thân, sĩ phu và nhân dân cả nước đứng lên vì vua mà kháng chiến.

Chiếu Cần vương đã nhanh chóng thổi bùng ngọn lửa yêu nước trong nhân dân, tạo thành một phong trào vũ trang chống Pháp sôi nổi, liên tục kéo dài hơn 10 năm mới chấm dứt. 2. Các giai đoạn phát triển của phong trào Cần vương

Phong trào Cần vương phát triển qua hai giai đoạn.

a. Giai đoạn từ năm 1885 đến năm 1888

Phong trào diễn ra sôi nổi có sự chỉ huy tương đối thống nhất (dưới sự chỉ huy của Hàm Nghi và Tôn Thất Thuyết)

- Lãnh đạo chủ yếu là sĩ phu, văn thân, có một số lãnh tụ xuất thân từ nông dân như Cao Thắng, Cao Điển...

- Lực lượng tham gia chủ yếu là nông dân, có cả đồng bào các tộc người thiểu số.

- Địa bàn: khắp Bắc Kì và Trung Kì.

- Diễn biến: gây thiệt hại cho địch. Sau đó, thực dân Pháp phối hợp với tay sai tấn công đàn áp, các cuộc khởi nghĩa thất bại, các lãnh tụ bị bắt hoặc hi sinh, một số sang Trung Quốc cầu viện.

- Tháng 11-1888, Hàm Nghi bị giặc Pháp bắt những phong trào vẫn được duy trì.

b. Giai đoạn từ năm 1888 đến năm 1895

- Phong trào qui tụ dần thành những trung tâm lớn.

- Phong trào ở đồng bằng ngày càng bị thu hẹp và chuyển dần hoạt động lên trung du miền núi. Tiêu biểu là khởi nghĩa Hùng Lĩnh do Cao Điển và Tống Duy Tân lãnh đạo, khởi nghĩa Hương Khê do Phan Đình Phùng và Cao Thắng lãnh đạo.

Đến cuối năm 1895, phong trào Cần vương mới chấm dứt.

II. Một số cuộc khởi nghĩa tiêu biểu trong phong trào Cần vương và phong trào đấu tranh tự vệ cuối thế kỉ XIX

1. Khởi nghĩa Bãi Sậy (1883-1892)

- Lãnh đạo: Nguyễn Thiện Thuật.

- Địa bàn hoạt động: các tỉnh Hưng Yên, Hải Dương, Bắc Ninh, Thái Bình, sang cả Nam Định, Quảng Yên.

Căn cứ: căn cứ Bãi Sậy, nằm giữa vùng đồng bằng có các tuyến giao thông thủy bộ đi qua. Ngoài Bãi Sậy còn có căn cứ Hai Sông ở Hải Dương.

- Tổ chức, trang bị: nghĩa quân chia thành nhóm nhỏ từ 20 đến 25 người, trà trộn vào dân hoạt động; vũ khí tự tạo.

- Từ năm 1888, nghĩa quân bước vào giai đoạn chiến đấu quyết liệt. Thực dân Pháp tăng cường binh lực, xây dựng hệ thống đồn bốt dày đặc và thực hiện chính sách “dùng người Việt trị người Việt” để cô lập nghĩa quân. Nghĩa quân di chuyển linh hoạt, đánh thắng một số trận lớn ở vùng sông Đuống, Lang Tài, Từ Sơn, Gia Lâm, Bắc Ninh, đặc biệt là trận Liêu Trung (Mi Hào - Hưng Yên), diệt tên sĩ quan chỉ huy Pháp, vận động lính ngụy trở về với nhân dân.

Sau nhiều ngày chiến đấu, lực lượng nghĩa quân giảm sút, Nguyễn Thiện Thuật đến căn cứ Hai Sông rồi sang Trung Quốc.

Giữa năm 1889, căn cứ Hai Sông bị quân Pháp tấn công, Đốc Tít chỉ huy nghĩa quân chống trả quyết liệt nhưng bị đánh bật khỏi đại bản doanh Trại Sơn. Trong thế cùng ông phải ra hàng.

- Kết quả và ý nghĩa:

+ Tồn tại được bảy năm (1885-1892) gây cho địch nhiều thiệt hại.

+ Kế tục truyền thống yêu nước bất khuất của ông cha ta, cổ vũ nhân dân đứng lên đấu tranh.

+ Để lại nhiều bài học kinh nghiệm, nhất là kinh nghiệm tác chiến ở vùng đồng bằng.

2. Khởi nghĩa Ba Đình (1886-1887)

- Lãnh đạo: Phạm Bành, Định Công Tráng.

- Địa bàn hoạt động: Thanh Hóa.

- Căn cứ: xây dựng tại ba làng Mậu Thịnh, Thượng Thọ, Mĩ Khê. Chiến lũy được xây dựng bằng những sọt tre nhồi rơm trộn bùn, dày từ 8 đến 10 mét, trên mặt có các lỗ châu mai. Khu căn cứ được rào kín bằng các lũy tre, sau đó là vòng hào rộng 4 mét, sâu 3 mét có cắm chống, cuối cùng là vòng cọc tre vót nhọn cắm quanh chân thành.

- Tổ chức lực lượng: nghĩa quân khoảng 300 người bao gồm người Kinh, Mường, Thái.

- Trang bị: súng hỏa mai, gươm, giáo, cung nỏ.

- Hoạt động chủ yếu: chặn đánh các đoàn xe vận tải của địch và tập kích vào các toán lính hành quân đi qua căn cứ.

- Tháng 12-1886, 500 quân Pháp tấn công căn cứ Ba Đình nhưng thất bại. Ngày 6-1-1887, địch tập trung 2.500 quân do đại tá Bơrítxô chỉ huy bao vây căn cứ. Ngày 15-1-1887, quân Pháp tổng tấn công.

Cuộc chiến diễn ra ác liệt. Cả hai bên đều bị thương vong nhiều. Quân Pháp dùng hỏa lực mạnh dội đạn vào căn cứ rồi dùng vòi rồng phun dầu đốt cháy các lũy tre. Trước sức mạnh áp đảo của giặc, lực lượng nghĩa quân suy yếu dần. Đêm 20 -1. nghĩa quân mở đường máu rút ra bên ngoài. Sáng 21-1-1887, dịch chiếm được căn cứ và triệt hạ ba làng.

Trong cuộc chiến đấu này, các thủ lĩnh nghĩa quân một số hi sinh, người phải sang Trung Quốc. Đến mùa hè 1887, Đinh Công Tráng cũng bị rơi vào tay giặc. Khởi nghĩa Ba Đình tan rã.

3. Khởi nghĩa Hương Khê (1885-1896)

- Lãnh đạo: Phan Đình Phùng, Cao Thắng

- Địa bàn hoạt động: gồm 4 tỉnh Thanh Hóa, Nghệ An, Hà Tĩnh, Quảng Bình

- Căn cứ chính: vùng núi hiểm trở thuộc hai huyện Hương Khê và Hương Sơn. Đại Bản doanh đặt ở núi Vụ Quang.

- Lực lượng tham gia: đông đảo nhân dân các dân tộc trong 4 tỉnh

* Cuộc khởi nghĩa chia thành 2 giai đoạn:

- Giai đoạn từ năm 1885 đến năm 1888:

+ Xây dựng lực lượng: chiêu tập binh sĩ, trang bị, huấn luyện và xây dựng căn cứ.

+ Chế tạo được súng trường theo mẫu của Pháp.

- Giai đoạn từ năm 1888 đến năm 1896: nghĩa quân liên tục mở các cuộc tập kích, đẩy lùi nhiều cuộc hành quân càn quét của địch.

- Nhiều trận đánh nổi tiếng: trận tấn công đồn Trường Lưu (5 1890), trận tập kích thị xã Hà Tĩnh (8-1892) giải phóng 700 tù chính trị, trận tấn công tỉnh lộ Nghệ An (10-1893). Trong trận tấn công đồn Nu (Thanh Chương) Cao Thắng hi sinh.

- Ngày 17- 10-1894, nghĩa quân thắng lớn trong trận Vụ Quang, diệt hàng chục tên địch.

- Sau trận Vụ Quang, đội quân tay sai do Nguyễn Thân chỉ huy tổ chức vây hãm núi Vụ Quang. Nghĩa quân bị triệt đường tiếp tế, lực lượng giảm sút. Phan Đình Phùng bị thương nặng và hi sinh ngày 28-12-1895.

Khởi nghĩa Hương Khê thất bại, đánh dấu sự kết thúc của nhong trào đấu tranh chống Pháp dưới danh nghĩa Cần vương.

4. Khởi nghĩa Yên Thế (1884-1918)

- Nguyên nhân bùng nổ: thực dân Pháp tăng cường chính sách cướp bóc và bình định quân sự. Nhu cầu bảo vệ lợi ích cụ thể, trước mắt bắt buộc nông dân Yên Thế phải vùng dậy.

- Lãnh tụ: từ năm 1884 đến năm 1892 là Đề Nắm. Từ năm 1893 là Đề Thám.

* Giai đoạn từ năm 1884-1892

- Nghĩa quân hoạt động riêng, đã đẩy lùi nhiều cuộc hành quân càn quét của địch. Đến năm 1891, nghĩa quân mở rộng hoạt động sang phủ Lạng Thương.

- Trước những đợt tấn công mới của địch, nghĩa quân rút dần lên Đồng Hom, sau đó hình thành bảy hệ thống công sự ở vùng Bắc Yên Thế.

- Tháng 3-1892, 2.200 quân Pháp gồm nhiều binh chủng tấn công căn cứ của nghĩa quân. Lực lượng nghĩa quân bị thiệt hại nặng. Đề Nắm bị sát hại tháng 4-1892.

* Giai đoạn từ năm 1893-1897

- Đề Thám tìm cách giảng hòa với Pháp để củng cố lực lượng: Nghĩa quân lập mưu bắt một tên điền chủ người Pháp, chính quyền thực dân phải giảng hòa, nộp tiền chuộc, rút khỏi Yên Thế, cho Đề Thám cai quản bốn tổng Yên Lễ, Mục Sơn, Nhã Nam, Hữu Thượng.

Không lâu sau, thực dân Pháp bội ước, tổ chức tấn công, nghĩa quân phải chia nhỏ thành từng toán, trà trộn vào dân để hoạt động.

- Cuộc giảng hòa lần thứ hai:

Thực dân Pháp muốn chấm dứt xung đột để tiến hành khai thác. Để bảo toàn lực lượng Đề Thám xin giảng hòa (tháng 12 1897) và phải tuân thủ những điều kiện ngặt nghèo.

* Giai đoạn từ năm 1898 đến năm 1908

- Tranh thủ thời gian hòa hoãn (10 năm), nghĩa quân vừa sản xuất vừa luyện tập quân sự. Đội quân của Đề Thám (200 người) rất tinh nhuệ, thiện chiến.

* Giai đoạn từ năm 1909 đến năm 1913

Sau vụ đầu độc lính Pháp ở Hà Nội năm 1909, thực dân Pháp tấn công nhằm tiêu diệt bằng được phong trào nông dân Yên Thế. Nghĩa quân phải di chuyển liên tục. Nhiều thủ lĩnh bị sinh, một số phải ra hàng. Đến tháng 2-1913 Đề Thám bị sát hại, phong trào tan rã.