BÀI 18. NHỮNG NĂM ĐẦU CỦA CUỘC KHÁNG CHIẾN TOÀN QUỐC CHỐNG PHÁP (1946 - 1950)

BÀI 18. NHỮNG NĂM ĐẦU CỦA CUỘC KHÁNG CHIẾN TOÀN QUỐC CHỐNG PHÁP (1946 - 1950)


I. KHÁNG CHIẾN TOÀN QUỐC CHỐNG THỰC DÂN PHÁP BÙNG NỔ

1. Thực dân Pháp bội ước và tiến công nước ta

  • Sau Hiệp định Sơ bộ 6/3/1946 và Tạm ước 14/9/1946, Pháp vẫn chuẩn bị xâm lược nước ta.
  •   Tiến công các phòng tuyến của ta ở Nam Bộ và Nam Trung Bộ.
  •   Tháng 11/1946, Pháp khiêu khích ta ở Hải Phòng, Lạng Sơn.
  •   Ở Hà Nội, Pháp nổ súng, đốt nhà Thông tin, chiếm đóng Bộ tài chính, tàn sát đẫm máu ở phố hàng Bún, Yên Ninh.
18/12/1946, Pháp gửi tối hậu thư đòi ta giải tán lực lượng tự vệ chiến đấu để Pháp giữ gìn trật tự ở Hà Nội. Nếu không, chậm nhất sáng 20/12/1946, chúng sẽ hành động.

2.  Đường lối kháng chiến chống Pháp của Đảng

Ngày 12/12/1946, Ban Thường vụ Trung ương Đảng ra chỉ thị Toàn dân kháng chiến.
Ngày 18 và 19/12/1946, Hội nghị bất thường Trung ương Đảng tại Vạn Phúc (Hà Đông), quyết định phát động cả nước kháng chiến.
20 giờ ngày 19/12/1946, công nhân nhà máy điện Yên Phụ (Hà Nội) phá máy, cả thành phố mất điện. Hồ Chí Minh ra Lời kêu gọi toàn quốc kháng chiến.
  • Nội dung cơ bản của đường lối kháng chiến chống Pháp
-       Lời kêu gọi toàn quốc kháng chiến của Chủ tịch Hồ Chí Minh (19/12/1946).
-       Chỉ thị Toàn dân kháng chiến của Ban Thường vụ Trung ương Đảng (12/12/1946).
-       Tác phẩm Kháng chiến nhất định thắng lợi (9/1947).
-       Là những văn liện lịch sử về đường lối kháng chiến, nêu rõ tính chất, mục đích, nội dung và phương châm của cuộc kháng chiến chống Pháp: kháng chiến toàn dân, toàn diện, trường kỳ, tự lực cánh sinh và tranh thủ sự ủng hộ của quốc tế.
Phân tích đường lối kháng chiến:
Kháng chiến toàn dân Bất kỳ đàn ông, đàn bà, bất kỳ người già, người trẻ, không chia tôn giáo, đảng phái, dân tộc, hễ là người Việt Nam thì phải đứng lên chống thực dân Pháp cứu tổ quốc. Vì lợi ích toàn dân và phải do toàn dân tiến hành.
 Kháng chiến toàn diện: Trên các lĩnh vực chính trị, quân sự, ngoại giao, kinh tế, văn hoá.Mặc khác ta vừa kháng chiến  vừa kiến quốc, xây dựng chế độ dân chủ nhân dân nên phải kháng chiến toàn diện.
 Tự lực cánh sinh:  dựa vào sức mạnh nhân dân, đồng thời tranh thủ sự ủng hộ của quốc tế
Kháng chiến trường kỳ Theo 3 giai đoạn: Phòng ngự, cầm cự và tổng phản công.

II. CUỘC CHIẾN ĐẤU Ở CÁC ĐÔ THỊ VÀ VIỆC CHUẨN BỊ CHO CUỘC KHÁNG CHIẾN LÂU DÀI

1. Cuộc chiến đấu ở các đô thị phía bắc vĩ tuyến 16

-       Lúc 20 giờ 19/12/1946, cuộc chiến đấu ở Hà Nội bắt đầu, ta tiến công các vị trí quân Pháp, dựng chướng ngại vật hoặc chiến lũy ngay trên đường phố để ngăn địch.
-       Trung đoàn thủ đô được thành lập  đánh  quyết liệt ở Bắc Bộ phủ, Bưu điện Bờ Hồ, đầu cầu Long Bien, ga Hàng Cỏ, chợ Đồng Xuân...
-       Sau hai tháng chiến đấu kiên cường - ngày 17/02/1947, Trung đoàn thủ đô rút về căn cứ an toàn.
  • Kết quả
  • Trong 60 ngày đêm, Hà Nội chiến đấu gần 200 trận, giết và làm bị thương hàng nghìn tên địch, phá hủy hàng chục xe cơ giới, 5 máy bay…
  • Hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ giam chân địch trong thành phố một thời gian dài để hậu phương huy động kháng chiến, bảo vệ Trung ương Đảng về căn cứ Việt Bắc an toàn.
  • Tại các đô thị, quân ta bao vây, tiến công, tiêu diệt nhiều tên địch.
  • Cuộc chiến đấu ở các đô thị phía bắc vĩ tuyến 16 tạo điều kiện cho cả nước đi vào cuộc kháng chiến lâu dài.
  • Quân dân Nam Bộ, Nam Trung Bộ đẩy mạnh chiến tranh du kích, chặn đánh địch trên các tuyến giao thông, phá cơ sở hậu cần của chúng.

III. Chiến dịch việt Bắc Thu - đông 1947 và việc đẩy mạnh kháng chiến toàn dân, toàn diện

1. Chiến dịch Việt Bắc Thu - đông 1947

Hoàn cảnh lịch sử: Tháng 3/1947, Cao ủy Pháp Bôlaec ở Đông Dương thay Đácgiănglơ, thực hiện kế hoạch tiến công Việt Bắc, nhằm nhanh chóng kết thúc chiến tranh.
Diễn biến:
Địch Ta
 Pháp huy động 12.000 quân và hầu hết máy bay ở Đông Dương tiến công Việt Bắc
Sáng ngày 07/10/1947:
+  Quân dù Pháp (Sô va nhắc chỉ huy) chiếm Bắc Cạn, Chợ Mới, Chợ Đồn …
+   Quân  bộ (Bôphơrê chỉ huy) từ Lạng Sơn theo đường số 4 lên Cao Bằng, rồi vòng xuống Bắc Cạn; theo đường số 3, bao vây phía đông và bắc Việt Bắc.
Ngày 09/10/1947,  quân bộ  và lính thủy đánh bộ Pháp (Côm muy nan chỉ huy) từ Hà Nội ngược sông Hồng, sông Lô lên Tuyên Quang, rồi Chiêm Hóa, đánh Đài Thị, bao vây phía tây Việt Bắc.
  Đảng chỉ thị: “Phải phá tan cuộc tiến công mùa đông của giặc Pháp” (15/10/1947).
Trên khắp các mặt trận, quân dân ta anh dũng chiến đấu đẩy lui địch:
+         Ta chủ động bao vây, tiến công địch buộc Pháp phải rút khỏi Chợ Mới, Chợ Đồn, Chợ Rã...cuối tháng 11/1947.
+         Mặt trận hướng Đông, đường số 4, ta phục kích ở đèo Bông Lau (30/10/1947). Đường số 4 trở thành “con đường chết”, thu nhiều vũ khí của địch.
+         Mặt trận hướng Tây, sông Lô, ta chặn đánh địch ở Đoan Hùng, Khe Lau, đánh chìm nhiều tàu chiến, canô địch.
-       Như vậy ta  bẻ gãy hai gọng kìm Đông - Tây của Pháp.
 
Ngày 19/12/947, Pháp phải rút khỏi Việt Bắc. Ở các mặt trận khác phối hợp với Việt Bắc: quân dân  ta  ở Hà Nội  đã kiềm chế, không cho địch tập trung binh lực vào các chiến trường chính.
Kết quả và ý nghĩa
  • Ta tiêu diệt hơn 6000 tên địch, bắn rơi 16 máy bay, bắn chìm 11 tàu chiến và ca nô, phá hủy nhiều phương tiện chiến tranh.
  • Cơ quan đầu não kháng chiến được bảo toàn, bộ đội chủ lực của ta trưởng thành.
  • Cuộc kháng chiến chống Pháp chuyển sang giai đoạn mới
  • Pháp buộc phải thay đổi chiến lược từ “đánh nhanh thắng nhanh” sang “đánh lâu dài”, thực hiện chính sách “Dùng người Việt đánh người Việt, lấy chiến tranh nuối chiến tranh”.

IV. Hoàn cảnh lịch sử mới và chiến dịch biên giới Thu - đông năm 1950

1. Hoàn cảnh lịch sử mới của cuộc kháng chiến

1/10/1949, cách mạng Trung Quốc thành công, nước CHND Trung Hoa ra đời.
14/1/1950, Chủ tịch Hồ Chí Minh tuyên bố sẵn sàng đặt quan hệ với các nước.
18/01/1950 đặt quan hệ ngoại giao với CHND Trung Hoa.
1/1950 Liên Xô và các nước XHCN lần lượt đặt quan hệ ngoại giao với ta.
Ngày 13/5/1949 Mĩ giúp Pháp thực hiện kế hoạch Rơve:
  • Mĩ can thiệp sâu và dính líu trực tiếp vào chiến tranh Đông Dương  
  • Công nhận chính phủ Bảo Đại
  • Tháng 5/1950, đồng ý viện trợ cho Pháp.
Tháng 6/1949 thực hiện kế hoạch Rơ ve:
  • Tăng cường hệ thống phòng ngự trên đường số 4, cắt đứt liên lạc của ta với quốc tế.
  • Lập hành lang Đông - Tây (Hải Phòng - Hà Nội - Hòa Bình - Sơn La)
  • Cô lập và chuẩn bị tấn công Việt Bắc lần thứ hai,  để nhanh chóng  kết thúc chiến tranh.

2. Chiến dịch Biên giới thu - đông năm 1950

Tháng 6/1950, ta chủ động mở chiến dịch Biên giới nhằm:
  • Tiêu diệt một bộ phận quan trọng sinh lực địch
  • Khai thông đường sang Trung Quốc và thế giới.
  • Mở rộng và củng cố căn cứ Việt Bắc, tạo đà thúc đẩy kháng chiến tiến lên.
  • Chủ tịch Hồ Chí Minh ra mặt trận cùng Bộ chỉ huy chỉ đạo và động viên bộ đội chiến đấu.
Diễn biến:
Ngày 16/09, mở đầu chiến dịch bằng ở Đông Khê, sau 2 ngày, ta chiếm Đông Khê.
Quân địch ở Thất Khê bị uy hiếp, Cao Bằng bị cô lập. Pháp phải rút khỏi Cao Bằng theo đường số 4, huy động quân từ Thất Khê lên chiếm lại Đông Khê và đón cánh quân từ Cao Bằng về.
Đoán được ý định của Pháp, quân ta mai phục, chặn đánh khiến cho hai cánh quân trên đường số 4 không gặp được nhau.
Thất Khê bị uy hiếp, Pháp rút về Na sầm 8/10
Ngày 13/10, địch rút khỏi Na Sầm về Lạng Sơn, cuộc hành quân của địch ở Thái Nguyên cũng bị quân ta chặn đánh.
22/10, Quân Pháp hoảng loạn, phải rút chạy, Đường số 4 được giải phóng  
Phối hợp với mặt trận Biên giới, ta hoạt động mạnh ở tả ngạn sông Hồng, Tây Bắc, Đường số 6, số 12, buộc địch phải rút khỏi thị xã Hoà Bình.
Chiến tranh du kích phát triển mạnh ở Bình - Trị - Thiên, Liên khu V và Nam Bộ.
Kết quả   
  • Sau hơn một tháng, chiến dịch Biên Giới kết thúc thắng lợi
  • Ta đã loại khỏi vòng chiến đấu 8.000 địch, giải phóng biên giới Việt – Trung.
  • Chọc thủng “Hành lang Đông - Tây” của Pháp
  • Phá vỡ thế bao vây của Pháp đối với căn cứ địa Việt Bắc.
  • Kế hoạch Rơve phá sản.
Ý nghĩa
  • Con đường liên lạc của ta với các nước XHCN được khai thông.
  • Giành thế chủ động trên chiến trường chính (Bắc bộ).
  • Ta mở ra bước phát triển mới của cuộc kháng chiến.