Bài 16: Các nước Đông Nam Á giữa hai cuộc chiến tranh thế giới (1918-1939)

Bài 16: Các nước Đông Nam Á giữa hai cuộc chiến tranh thế giới (1918-1939)

A. KIẾN THỨC CƠ BẢN

I. Tình hình các nước Đông Nam Á sau Chiến tranh thế giới thứ nhất

1. Tình hình kinh tế, chính trị, xã hội

- Dưới tác động của chương trình khai thác và bóc lột thuộc địa sau Chiến tranh thế giới thứ nhất của thực dân phương Tây, các nước Đông Nam Á có những chuyển biến quan trọng về kinh tế, chính trị, xã hội.

+ Về kinh tế, Đông Nam Á bị lôi cuốn vào hệ thống kinh tế của chủ nghĩa tư bản với tư cách là thị trường tiêu thụ và nơi cung cấp nguyên liệu cho chính quốc.

+ Về chính trị, toàn bộ quyền hành nằm trong tay thực dân.

+ Về xã hội, sự phân hóa giai cấp diễn ra sâu sắc. Giai cấp tư sản dần lớn mạnh, giai cấp công nhân ngày càng trưởng thành.

- Thắng lợi của cuộc Cách mạng tháng Mười Nga và cao trào cách mạng thế giới đã tác động mạnh mẽ đến phong trào độc lập dân tộc ở Đông Nam Á.

2. Khái quát về phong trào độc lập tộc ở Đông Nam Á

- Những bước tiến của phong trào dân tộc tư bản

+ Mục tiêu rõ ràng: đòi tự do kinh doanh, tự chủ về chính trị, dùng tiếng mẹ đẻ trong nhà trường.

+ Một số chính đáng được thành lập: Đảng Dân tộc ở Inđônêxia, phong trào Thakin ở Miến Điện, Đại hội toàn Mã Lai.

- Xu hướng vô sản xuất hiện

+ Từ thập niên 20 giai cấp vô sản bắt đầu trưởng thành, các đảng cộng sản được thành lập: tháng 5-1920, Đảng Cộng sản Inđônêxia, các đảng cộng sản Việt Nam, Mã Lai, Xiêm và Phi líp pin ra đời trong năm 1930.

+ Dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản, phong trào độc lập dân tộc diễn ra sôi nổi, quyết liệt: Năm 1926-1927, khởi nghĩa vũ trang ở Inđônêxia, phong trào Xô viết Nghệ Tĩnh (1930-1931) ở Việt Nam.

II. Phong trào độc lập dân tộc ở Inđônêxia

1. Phong trào độc lập trong thập niên 20 của thế kỉ XX

- Sự thành lập Đảng Cộng sản Inđônêxia

+ Tháng 5-1920 Đảng Cộng sản Inđônêxia thành lập và lãnh đạo phong trào cách mạng trong thập niên 20 của TK XX.

+ Thất bại của cuộc khởi nghĩa vũ trang ở Giava và Xumatơra trong những năm 1926-1927 đã làm cho Đảng Cộng sản mất quyền lãnh đạo.

- Quyền lãnh đạo phong trào cách mạng chuyển sang giai cấp tư sản

+ Từ năm 1927 quyền lãnh đạo phong trào cách mạng chuyển sang tay giai cấp tư sản mà đại diện là Đảng Dân tộc do Ácmét Xucácnô đứng đầu.

+ Chủ trương của Đảng Dân tộc là đoàn kết các lực lượng da tộc chống đế quốc, đấu tranh bằng con đường hòa bình, bằng phong trào bất hợp tác với chính quyền thực dân.

+ Chủ trương của Đảng Dân tộc phù hợp hoàn cảnh lịch sử và điều kiện cụ thể của Inđônêxia nên Đảng nhanh chóng " thành lực lượng dẫn dắt phong trào giải phóng dân tộc ở Indônêxia.

2. Phong trào độc lập dân tộc trong thập niên 30 của thế kỉ XX

- Đầu những năm 30 (1930-1933): Phong trào đấu tranh chống thực dân Hà Lan lan rộng khắp Inđônêxia, đỉnh cao là khởi nghĩa của thủy binh ở cảng Surabaya năm 1933. Cuộc khởi hĩa bị đàn áp, Đảng Dân tộc bị khủng bố và bị đặt ra ngoài vòng pháp luật.

- Cuối những năm 30 (1937-1940): Mặt trận thống nhất chống phát xít thành lập – liên minh chính trị Inđônêxia.

Tháng 12-1939, Liên minh chính trị Inđônêxia triệu tập Đại hội đại biểu nhân dân, biểu thị sự thống nhất dân tộc trong cuộc đấu tranh giành độc lập.

Đại hội thông qua Nghị quyết về ngôn ngữ, Quốc ca, thành lập Hội đồng Inđônêxia, Hội đồng bày tỏ nguyện vọng hợp tác với chính quyền thực dân chống phát xít nhưng bị từ chối.

II. Phong trào đấu tranh chống thực dân Pháp ở Lào và Campuchia

- Ở Lào

+ Cuộc khởi nghĩa của Ong Kẹo và Commađam nổ ra từ năm 1901 kéo dài đến năm 1937.

+ Cuộc khởi nghĩa của người Mèo do Chậu Pachay lãnh đạo diễn ra trong những năm 1918-1922 ở Bắc Lào và Tây Bắc Việt Nam.

- Ở Campuchia

+ Phong trào chống thuế, chống bắt phu diễn ra mạnh mẽ.

+ Nông dân huyện Rolephan ở CôngKông Chơnăng đấu tranh vũ trang chống Pháp.

- Năm 1930, Đảng Cộng sản ra đời mở ra thời kì mới của cách mạng Đông Dương.

- Trong thời kì 1936-1939, cuộc vận động dân chủ đã kích thích sự phát triển của phong trào đấu tranh dân chủ ở Lào và Campuchia.

IV. Cuộc đấu tranh chống thực dân Anh ở Mã Lai và Miến Điện

a. Ở Mã Lai

- Lãnh đạo là giai cấp tư sản dân tộc - đại diện là Đại hội toàn Mã Lai.

- Hình thức đấu tranh phong phú: đòi dùng tiếng Mã Lai trong nhà trường, tự do kinh doanh.

- Tháng 4-1930, Đảng Cộng sản Mã Lai thành lập. Trong những năm 1934-1936, đã nổ ra nhiều cuộc tổng bãi công đòi tăng lương và chính quyền thực dân phải chấp nhận tăng lương cho công nhân.

b. Ở Miến Điện

- Những năm 20 của TK XX, phong trào đấu tranh dưới các hình thức bất hợp tác, tẩy chay hàng hóa Anh, không đóng thuế (chịu ảnh hưởng cuộc đấu tranh ở Ấn Độ).

- Trong thập niên 80, phong trào Thakin của học sinh, sinh viên, đòi cải cách quy chế đại học, thành lập trường đại học riêng cho Miến Điện, đòi tách Miến Điện ra khỏi Ấn Độ và được quyền tự trị. Năm 1937, Miến Điện tách khỏi Ấn Độ.

V. Cuộc cách mạng năm 1932 ở Xiêm

- Nét chính về diễn biến

+ Mùa hè năm 1932, giai cấp tư sản đứng đầu là Priđi Phanô-miông đã lãnh đạo cuộc cách mạng ở Thủ đô Băng Cốc.

+ Priđi Phanomiông chủ trương thực hiện những cải cách tư sản về kinh tế – xã hội, xây dựng chế độ quân chủ lập hiến.

- Ý nghĩa

Cách mạng đã thay thế chế độ quân chủ chuyên chế bằng chế độ quân chủ lập hiến, tạo điều kiện thực hiện cải cách tư sản ở Xiêm.